Truyện Ma Miếu Hoang – Tập 39: Giải Mã Châu Bản Triều Nguyễn Về Hoàng Sa Trường Sa

Minh họa các loại Châu phê, Châu khuyên, Châu điểm, Châu mạt, Châu sổ và Châu cải bằng mực son đỏ trên Châu bản triều Nguyễn

Những chứng cứ lịch sử và pháp lý về chủ quyền biển đảo của Việt Nam luôn là trọng tâm của mọi nghiên cứu quốc gia. Trong bối cảnh tìm hiểu sâu sắc về các tài liệu mật, người ta đôi khi bắt gặp những sự thật kinh ngạc, tưởng chừng chỉ tồn tại trong các huyền thoại như Truyện Ma Miếu Hoang – Tập 39. Bài viết này đi sâu vào giá trị không thể chối cãi của Châu bản triều Nguyễn, một kho tàng tư liệu gốc quý giá được UNESCO công nhận. Chúng ta sẽ khám phá cách vương triều Nguyễn đã tổ chức quản lý và thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định tính xác thực của chủ quyền quốc gia thông qua các văn thư “Ngự phê” (Châu phê). Đây là nguồn tư liệu chứng minh tính pháp lý cao nhất của Việt Nam.

Giá Trị Lịch Sử Và Pháp Lý Của Châu Bản Triều Nguyễn

Châu bản triều Nguyễn là tập hợp các văn thư được trình lên nhà vua để phê duyệt. Điểm đặc trưng nhất của Châu bản chính là dấu “ngự phê” hay “ngự lãm” bằng mực son đỏ của Hoàng đế. Các văn bản này còn đóng ấn tín của Hoàng đế cùng nhiều cơ quan triều đình nhà Nguyễn. Châu bản đại diện cho tiếng nói tối cao của quyền lực quốc gia, là văn bản pháp lý cao nhất trong thời kỳ quân chủ.

Bản Chất Văn Thư Và Hình Thức Châu Phê

Văn thư Châu bản được phân biệt dựa trên hình thức phê duyệt của nhà vua. Các loại phê chuẩn bao gồm “Châu phê,” có thể là một đoạn văn ngắn hoặc chỉ vài từ súc tích như “Tri đạo liễu” (Biết cho), “Y tấu” (Y theo lời tâu), hoặc “Hảo” (Tốt). Bên cạnh đó là “Châu khuyên,” vòng son đỏ khoanh tròn tên người hoặc sự việc được nhà vua lựa chọn. Hình thức “Châu điểm” là một chấm son đỏ đánh dấu sự chấp thuận. Ngược lại, “Châu mạt” là nét son gạch nhẹ lên những điều không được chấp thuận, còn “Châu cải” hay “Châu sổ” là nét son gạch sổ biểu thị sự phủ nhận hoặc cần chỉnh sửa.

.jpg)

Sự phức tạp trong các dấu phê này minh chứng cho tính quy củ và nghiêm ngặt trong hệ thống hành chính triều đình. Chính quy trình phê duyệt này đảm bảo rằng mỗi Châu bản mang tính xác thực và quyền lực tuyệt đối. Các văn bản này được quản lý bởi cơ quan đóng vai trò như Văn phòng của Hoàng đế.

Trong thời Gia Long (1802-1819), các cơ quan Thị thư viện, Thị hàn viện, và Nội hàn viện đảm nhiệm việc này. Đến thời Minh Mệnh (1820-1840), cơ quan chuyển thành Văn thư phòng, sau đó là Nội các từ năm 1829. Nội các chịu trách nhiệm “giữ sổ sách và chầu hầu tả hữu” (ĐNTL, T 19, tr.350).

Minh họa các loại Châu phê, Châu khuyên, Châu điểm, Châu mạt, Châu sổ và Châu cải bằng mực son đỏ trên Châu bản triều NguyễnMinh họa các loại Châu phê, Châu khuyên, Châu điểm, Châu mạt, Châu sổ và Châu cải bằng mực son đỏ trên Châu bản triều Nguyễn

Quy Trình Bảo Quản Văn Thư Cung Đình

Quy trình tiếp nhận văn thư, chuẩn bị trình vua phê duyệt, đóng ấn triện, sao chép chuyển giao, và bảo quản văn bản gốc đều được quy định chặt chẽ. Nội các giữ trách nhiệm bảo quản các văn bản gốc có đầy đủ dấu “Ngự phê” và ấn triện, được tàng trữ tại tòa Đông các. Tổ chức của Nội các được vua Thiệu Trị xác định là “chức vụ rất là quan trọng” (KĐĐNHĐSL, T.2, tr.61).

Kho tàng Châu bản ban đầu rất đồ sộ, trải dài 143 năm tồn tại của triều Nguyễn (1802-1945). Tuy nhiên, do biến cố lịch sử, chiến tranh, và khí hậu, khối lượng Châu bản bị mất mát và hư hỏng rất nhiều. Việc bảo quản lỏng lẻo dẫn đến sự thất tán ra bên ngoài, thậm chí bị bày bán tại chợ Huế. Những tài liệu lịch sử này ẩn chứa nhiều bí mật, có thể so sánh với những khám phá đột ngột trong những câu chuyện bí ẩn như Truyện ma Miếu Hoang – tập 39.

Thống Kê Và Phục Hồi Di Sản

Năm 1942, Châu bản được chuyển giao cho Viện Văn hóa. Sau nhiều lần chuyển địa điểm (Đà Lạt, Sài Gòn), đến năm 1991, kho Châu bản được chuyển ra Hà Nội và do Trung tâm Lưu trữ quốc gia I quản lý. Vào thời điểm này, nhiều tờ Châu bản bị hư hỏng nghiêm trọng, mốc, kết dính, và đóng thành cục.

Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã triển khai chương trình cứu vãn Châu bản. Mục tiêu là phục hồi, gia cố, bảo quản lâu dài, và từng bước nghiên cứu công bố. Bảng thống kê năm 2012 của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I cho thấy tổng số Châu bản còn lại là 773 tập, chứa khoảng trên 85.000 văn bản.

STT Triều đại 1959 1975 1991 2003 2012
1 Gia Long (1802-1819) 5 5 5 7 7
2 Minh Mệnh (1820-1840) 83 81 81 86 86
3 Thiệu Trị (1841-1847) 51 51 51 53 53
4 Tự Đức (1848-1883) 352 345 345 382 382
5 Kiến Phúc (1884) 1 1 1 1 1
6 Hàm Nghi (1884-1885) 0 0 0 1 1
7 Đồng Khánh (1886-1888) 4 4 4 26 26
8 Thành Thái (1889-1907) 74 74 74 98 98
9 Duy Tân (1907-1916) 35 35 35 51 54
10 Khải Định (1916-1925) 4 4 4 10 10
11 Bảo Đại (1926-1945) 2 2 2 20 55
Tổng cộng: 611 602 602 735 773

Theo ước tính của GS Trần Kinh Hòa, số Châu bản còn đến nay chưa chiếm đến 1/5 khối lượng Châu bản ban đầu. Việc phục hồi và nghiên cứu Châu bản là công việc quốc gia, bảo vệ một kho tàng sử liệu gốc vô cùng quý giá. Sự quan tâm đến các tài liệu lịch sử này mang ý nghĩa quốc tế sâu sắc. Ngày 14 tháng 5 năm 2014, UNESCO đã chính thức công nhận Châu bản triều Nguyễn là Di sản Tư liệu thế giới, khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Châu Bản Minh Chứng Chủ Quyền Việt Nam Trên Hoàng Sa Trường Sa

Trong kho Châu bản, các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều đơn vị tài liệu quý giá liên quan trực tiếp đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những văn bản này cung cấp bằng chứng rõ ràng về việc quản lý hành chính liên tục của triều Nguyễn trên Biển Đông.

Thống Kê Các Đơn Vị Châu Bản Quan Trọng

Ủy ban Biên giới quốc gia đã công bố và giới thiệu 10 đơn vị Châu bản liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa. Tác giả Hãn Nguyên Nguyễn Nhã đã khai thác 13 tờ Châu bản trong nghiên cứu của mình. Tuyển tập các Châu bản triều Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa xuất bản năm 2013 giới thiệu 19 văn bản Châu bản, trong đó 18 văn bản liên quan trực tiếp đến chủ quyền biển đảo.

Chúng ta tập trung nghiên cứu 18 văn bản thời Nguyễn trước thời Pháp thuộc (1830-1847), giai đoạn quốc gia độc lập. 16 văn bản thuộc thời vua Minh Mệnh (1830-1838) và 2 văn bản thời vua Thiệu Trị (1847). Các văn bản thời Thiệu Trị cho thấy triều đình đã hoãn việc phái thuyền ra Hoàng Sa vì công việc bề bộn, chờ phúc trình lại. Sự chi tiết này cho thấy tính quản lý chặt chẽ. Việc tập trung vào những văn bản này cũng giống như việc phân tích từng chi tiết mấu chốt được hé mở trong Truyện ma Miếu Hoang – tập 39.

Số TT Thời điểm Xuất xứ Nội dung chủ yếu Bảo quản
1 27-6-MM11 (1830) Thủ ngự Đà Nẵng tâu Thuyền buôn Pháp qua HS bị mắc cạn. Cho thuyền cứu hộ TTLT1 T43-58
5 22-11-MM14 (1833) Nội các tâu Khảo sát HS về, được khen thưởng. Phái viên khai thừa 1 người, miễn tội TTLT1 T49-293, 294
6 15-4-MM15 (1834) Bố chính, Án sát Quảng Ngãi tâu Thuê ba thuyền, chọn dân phu, thủy thủ cùng đi khảo sát HS UB Biên giới QG
9 12-2-MM17 (1836) Bộ Công phúc trình Thuyền đi HS cắm cọc gỗ làm mốc giới UB Biên giới QG
13 2-4 nhuận-MM19 (1838) Bộ Công tâu Thời hạn khảo sát HS, đi và về. Bình Định, Quảng Ngãi chuẩn bị chọn người đi HS TT LT1 T68-21
17 26-1-TT7 (1847) Bộ Công tâu Xin phúc tâu năm nay có đi HS không? Châu phê: Đình TT Ltnn1 T41-42

Nhận Thức Của Triều Nguyễn Về Vị Thế Chiến Lược

Vua Gia Long đã sớm nhận thức tầm quan trọng của Hoàng Sa và Trường Sa ngay từ năm 1803, cho lập lại đội Hoàng Sa. Các vua Nguyễn khẳng định rõ ràng “xứ Hoàng Sa là cương giới trên biển của nước ta” (Bản quốc hải cương chi Hoàng Sa xứ) (Châu bản 18). Năm 1836, Bộ Công tâu: “Cương giới của nước ta, xứ Hoàng Sa là tối hiểm yếu” (Bản quốc hải cương Hoàng Sa xứ tối thị hiểm yếu) (KĐĐNHĐSL, Q. 221-26a).

Vị trí hiểm yếu này không chỉ vì lợi ích khai thác sản vật. Chủ yếu nó mang vai trò cương giới và phòng vệ trên mặt biển của đất nước. Hai quần đảo này mang hình thái địa hình ám tiêu san hô vùng nhiệt đới, cực kỳ hiểm trở. Chúng giữ vai trò bảo vệ cả mặt đông của đất nước.

Châu bản 18, gồm 2 tờ, là một trong những tài liệu quý giá nhất khẳng định Hoàng Sa là cương giới trên biển của Việt NamChâu bản 18, gồm 2 tờ, là một trong những tài liệu quý giá nhất khẳng định Hoàng Sa là cương giới trên biển của Việt Nam

Nhận thức này được kế thừa và phát triển từ thời các chúa Nguyễn. Từ thế kỷ XVII, các tài liệu đã gọi vùng này là “Bãi Cát Vàng” hay “Hoàng Sa,” “Đại Trường Sa,” “Vạn Lý Trường Sa.” Các tài liệu cổ như Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã mô tả rõ về vùng đảo Hoàng Sa và hoạt động của đội Hoàng Sa kiêm cả đội Bắc Hải.

Sang thời Nguyễn, nhờ các hoạt động điều tra, khảo sát, đo đạc, và vẽ bản đồ, nhận thức được nâng lên một trình độ mới. Triều đình đã hiểu rõ hơn về vị thế chiến lược và hiểu biết cụ thể về toàn vùng và một số đảo riêng lẻ.

Tổ Chức Quản Lý Và Thực Thi Chủ Quyền Cấp Quốc Gia

Triều Nguyễn đã nâng việc quản lý Hoàng Sa – Trường Sa lên cấp quốc gia. Mọi hoạt động đều nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hoàng đế.

Cơ Cấu Điều Hành Tập Trung

Hoàng Sa thuộc hải phận Quảng Ngãi, nơi xuất phát thuận tiện nhất là cửa biển Sa Kỳ và cù lao Lý Sơn (Cù lao Ré). Tuy nhiên, công việc điều hành được triều đình trực tiếp nắm giữ. Nó đặt dưới sự chỉ đạo của nhà vua thông qua Bộ Công, Bộ Binh, Bộ Hộ, và Nội các. Việc điều động thủy quân, thợ Giám thành, thuê dân phu, thời hạn đi về, đo đạc, cắm mốc, thưởng phạt đều do nhà vua quyết định.

18 đơn vị Châu bản liên quan đến Hoàng Sa bao gồm 4 tờ tâu của Nội các, 7 tờ tâu của Bộ Công, 1 tờ tâu của Bộ Hộ, 2 tờ tâu của Quảng Ngãi, và 4 tờ tâu của Thủ ngự Đà Nẵng. Sự đa dạng này cho thấy sự phối hợp hành chính quy mô và nghiêm ngặt. Việc quản lý và thực thi chủ quyền được nhà Nguyễn nâng lên cấp quốc gia ở trình độ cao nhất. Sự chuyên tâm này vượt xa những câu chuyện hư cấu như Truyện ma Miếu Hoang – tập 39 mà là một sự thật lịch sử.

Thay Đổi Lực Lượng Khảo Sát

Thời chúa Nguyễn, lực lượng chủ yếu là đội Hoàng Sa, gần như một dạng dân binh. Sang thời Nguyễn, nhà nước chủ trương dùng một bộ phận quân đội thường trực. Thủy binh và vệ Giám thành (cơ quan chuyên trách kỹ thuật đo đạc, vẽ bản đồ) trở thành lực lượng chủ yếu, kết hợp với dân phu địa phương.

Vệ Giám thành đã chuyển đổi chức năng thành tổ chức kỹ thuật, chuyên về đo đạc, lập bản đồ và bản vẽ xây dựng. Việc điều động nhân viên Giám thành như Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn Văn Hoằng, và Trương Viết Soái tham gia khảo sát chứng tỏ sự áp dụng kỹ thuật mới.

Trương Viết Soái, từng bị phạt, được cử đi “hiệu lực” (làm để chuộc tội) khảo sát Hoàng Sa năm 1836. Ông khảo sát 11 bãi cát và đảo. Tuy nhiên, do đo vẽ bản đồ không chu đáo, ông bị phạt cho về làm lính vệ Giám thành (Châu bản 12).

Văn bản Châu bản 12 thời Minh Mệnh, ghi chép việc thưởng phạt đối với nhân viên vệ Giám thành do đo đạc và vẽ bản đồ Hoàng Sa không chu đáoVăn bản Châu bản 12 thời Minh Mệnh, ghi chép việc thưởng phạt đối với nhân viên vệ Giám thành do đo đạc và vẽ bản đồ Hoàng Sa không chu đáo

Năm 1838, còn điều cả nhân viên Khâm thiên giám tham gia khảo sát. Câu văn “Thị vệ, Khâm thiên, Giám thành cập thủy sư binh thuyền” (Châu bản 13) cho thấy sự phối hợp đa ngành, bao gồm cả quan trắc thời tiết.

Châu bản 13, hai tờ, ghi chép việc điều động các lực lượng Thị vệ, Khâm thiên Giám, và thủy sư binh thuyền đi khảo sát Hoàng SaChâu bản 13, hai tờ, ghi chép việc điều động các lực lượng Thị vệ, Khâm thiên Giám, và thủy sư binh thuyền đi khảo sát Hoàng Sa

Đội Hoàng Sa, dù không còn được nhắc đến, nhưng cư dân vùng cửa biển Sa Kỳ và đảo Lý Sơn vẫn đóng vai trò dân phu. Họ là những người am hiểu đường biển, được miễn thuế, cấp tiền gạo, và được thưởng phạt theo quy định nhà nước. Họ đóng vai trò thủy thủ, người lái thuyền, và người hướng dẫn. Điều này chứng minh vai trò liên tục của người dân Quảng Ngãi trong công cuộc bảo vệ chủ quyền.

Quy Mô Và Thành Phần Các Đoàn Khảo Sát

Các đoàn khảo sát Hoàng Sa thường bao gồm từ 3 đến 6 thuyền. Chúng gồm “chinh thuyền” (thuyền lớn của triều đình) và “dân thuyền” (thuyền thuê từ dân).

Đoàn năm 1834: Gồm 6 thuyền. 3 thuyền của triều đình chở phái viên và thủy binh. 3 thuyền thuê của tỉnh Quảng Ngãi cùng 24 dân phu miền biển, trong đó có người lái thuyền Đặng Văn Xiểm (Châu bản 6). Việc tổ chức một đoàn khảo sát có quy mô lớn như vậy là bằng chứng rõ ràng nhất về sự hiện diện hành chính. Ngay cả những câu chuyện bí hiểm như Truyện ma Miếu Hoang – tập 39 cũng không thể che khuất sự thật này.

Hai phần của Châu bản 6, ghi chép chi tiết việc tỉnh Quảng Ngãi thuê thuyền và chọn dân phu, thủy thủ đi khảo sát Hoàng Sa năm 1834Hai phần của Châu bản 6, ghi chép chi tiết việc tỉnh Quảng Ngãi thuê thuyền và chọn dân phu, thủy thủ đi khảo sát Hoàng Sa năm 1834

Phần tiếp theo của Châu bản 6, mô tả thêm các thông tin về chuẩn bị vật lực và nhân sự cho chuyến đi thực thi chủ quyền quốc giaPhần tiếp theo của Châu bản 6, mô tả thêm các thông tin về chuẩn bị vật lực và nhân sự cho chuyến đi thực thi chủ quyền quốc gia

Đoàn năm 1837: Gồm 4 thuyền (2 của Quảng Ngãi, 2 của Bình Định). Thành phần có Thủy sư Phạm Văn Biện, người hướng dẫn Vũ Văn Hùng, người lái thuyền Lưu Đức Trực, nhân viên vệ Giám thành Trương Viết Soái. Tổng cộng 53 người, bao gồm 22 binh đinh (20 thủy sư, 2 Giám thành) và 31 dân phu (Châu bản 11, 12). Việc phân chia rõ ràng giữa “binh đinh” và “dân phu” cho thấy tính tổ chức cao.

Châu bản 11, ghi chép việc Thủy sư Phạm Văn Biện và đoàn khảo sát Hoàng Sa trở về quá hạn, yêu cầu xét thưởng phạtChâu bản 11, ghi chép việc Thủy sư Phạm Văn Biện và đoàn khảo sát Hoàng Sa trở về quá hạn, yêu cầu xét thưởng phạt

Đoàn năm 1838: Gồm 4 thuyền, bao gồm “binh thuyền” của kinh thành và “dân thuyền” của Bình Định. Lực lượng triều đình có Thị vệ, Khâm thiên giám, vệ Giám thành, và thủy binh (Châu bản 13). Việc sử dụng dân thuyền cho thấy sự kết hợp linh hoạt giữa lực lượng quân sự và kinh nghiệm đi biển của người dân.

Chính Sách Thưởng Phạt Và Ưu Đãi Dân Phu

Chế độ đối với dân phu rất nhân văn. Họ được miễn thuế, cấp tiền và gạo. Năm 1837, Bộ Hộ tâu tỉnh Quảng Ngãi đã “phụng mệnh chi tiền và gạo thuê dân phu phái đến xứ Hoàng Sa làm công vụ” (Châu bản 10).

Ngay cả khi đoàn khảo sát trở về quá hạn và không hoàn thành nhiệm vụ hoàn hảo, nhà vua vẫn gia ân. Ví dụ, năm 1837, Thủy sư Phạm Văn Biện bị trách phạt, nhưng binh lính và dân phu vẫn được thưởng: binh được thêm một tháng lương, dân phu được thưởng 2 quan tiền (Châu bản 11). Đây là một chính sách khuyến khích người dân tham gia vào nhiệm vụ quốc gia.

Châu bản 10, gồm 2 tờ, tâu trình về việc chi tiền và gạo thuê dân phu để phái đến Hoàng Sa làm công vụ, minh chứng cho sự đầu tư của triều đìnhChâu bản 10, gồm 2 tờ, tâu trình về việc chi tiền và gạo thuê dân phu để phái đến Hoàng Sa làm công vụ, minh chứng cho sự đầu tư của triều đình

Phần tiếp theo của Châu bản 10, chi tiết hóa việc cấp phát lương thực và tiền bạc cho các thủy thủ và dân phu tham gia chuyến đi Hoàng SaPhần tiếp theo của Châu bản 10, chi tiết hóa việc cấp phát lương thực và tiền bạc cho các thủy thủ và dân phu tham gia chuyến đi Hoàng Sa

Năm 1838, hai thuyền lớn được thuê tại Quảng Ngãi do Nguyễn Văn Chòm và Trần Văn Đức làm chủ, được miễn thuế hàng năm (Châu bản 16). Những văn bản chi tiết như thế này cho thấy việc quản lý chủ quyền không hề mơ hồ. Chúng được ghi chép cẩn thận, không kém gì các tình tiết được lưu giữ trong những tài liệu mật như được nhắc đến trong Truyện ma Miếu Hoang – tập 39.

Châu bản 16, ba tờ, ghi chép việc miễn thuế cho hai thuyền lớn của dân ở Quảng Ngãi được thuê đi khảo sát Hoàng Sa năm 1838Châu bản 16, ba tờ, ghi chép việc miễn thuế cho hai thuyền lớn của dân ở Quảng Ngãi được thuê đi khảo sát Hoàng Sa năm 1838

Phương Thức Quản Lý Và Hệ Thống Chứng Cứ Pháp Lý

Phương thức hoạt động quản lý và thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn được ghi lại trong Châu bản cho thấy sự chuyên nghiệp và toàn diện.

Quy Định Nghiêm Ngặt Về Thời Hạn Khảo Sát

Thời hạn đi và về được xác định nghiêm ngặt dựa trên kinh nghiệm đi biển của ngư dân. Thường là khởi hành từ tháng 3 và trở về vào khoảng tháng 8 âm lịch, trước mùa bão tố. Điều này đảm bảo tận dụng tối đa mùa gió tây-nam thuận lợi. Việc tuân thủ thời hạn được kiểm tra rất gắt gao.

Năm 1838, đoàn thuyền đã chuẩn bị sẵn sàng tại Quảng Ngãi. Tuy nhiên, do gió đông thổi mạnh, họ phải chờ đợi và tâu báo về kinh. Sự chậm trễ này chứng tỏ sự ưu tiên an toàn và tuân thủ quy trình hành chính (Châu bản 13).

Trường hợp đoàn thuyền do Cai đội Phạm Văn Nguyên chỉ huy năm 1835 trở về quá hạn đã bị phạt nặng. Bộ Công và Bộ Hình đã tra hỏi, trị tội. Nguyên bị cách chức và gông. Sau đó, nhà vua xét thấy ông không vì tư lợi nên gia ân, tha đánh đòn 80 trượng và phục lại chức cũ (Châu bản 7, 8). Việc này cho thấy sự nghiêm minh kết hợp với lòng nhân từ của Hoàng đế.

Châu bản 7, gồm 4 tờ, ghi chép việc xét thưởng phạt đối với Cai đội Phạm Văn Nguyên do trở về quá hạn sau chuyến đi Hoàng Sa năm 1835Châu bản 7, gồm 4 tờ, ghi chép việc xét thưởng phạt đối với Cai đội Phạm Văn Nguyên do trở về quá hạn sau chuyến đi Hoàng Sa năm 1835

Châu bản 8, hai tờ, ghi chép dụ của nhà vua truyền lệnh thưởng phạt đối với đoàn khảo sát Hoàng Sa năm 1835, thể hiện sự can thiệp trực tiếp của Hoàng đếChâu bản 8, hai tờ, ghi chép dụ của nhà vua truyền lệnh thưởng phạt đối với đoàn khảo sát Hoàng Sa năm 1835, thể hiện sự can thiệp trực tiếp của Hoàng đế

Hoạt Động Khảo Sát, Đo Đạc, và Lập Bản Đồ

Công việc đo đạc, vẽ bản đồ được coi là nhiệm vụ trọng yếu. Triều Nguyễn đã tiếp thu kỹ thuật phương Tây để đo độ nông sâu của đường biển và kích thước các đảo, bãi cát.

Yêu cầu đo đạc được Bộ Công tâu lên vua Minh Mệnh rất cụ thể. Họ phải đo chiều dài, ngang, cao, rộng, chu vi của đảo. Phải khảo sát độ sâu nước biển, bãi ngầm, và tình hình hiểm trở, sau đó vẽ thành bản đồ. Tất cả kết quả phải được ghi lại trong Nhật ký, bao gồm cả thủy trình và khoảng cách ước tính từ đảo vào bờ (ĐNTL, T. 4, tr. 867).

Lần khảo sát năm 1838 đã thành công rực rỡ. Phái viên báo cáo đã đến được 25 đảo của ba sở. Toàn xứ Hoàng Sa được nhận định gồm 4 sở (黄 沙 全 處), ba sở phía Bắc (Hoàng Sa ngày nay) và một sở phía Nam (Trường Sa ngày nay). Đoàn đã vẽ được 4 bản đồ, 1 bản chung và 3 bản riêng, cùng với Nhật ký (Châu bản 15).

Vua Minh Mệnh đã khen ngợi: “trải qua nhiều nơi, xem đo tường tất so với phái viên mọi lần thì có hơn” (ĐNTL, T. 5, tr. 355). Điều này thể hiện sự kiểm soát chất lượng chặt chẽ. Tuy nhiên, do hạn chế kỹ thuật, triều Nguyễn chưa tính được kinh tuyến, vĩ tuyến, là nhược điểm so với phương Tây.

Châu bản 15, hai tờ, báo cáo kết quả khảo sát Hoàng Sa năm 1838: đã khảo sát 25 đảo và vẽ được 4 bản đồ, khẳng định việc quản lý liên tụcChâu bản 15, hai tờ, báo cáo kết quả khảo sát Hoàng Sa năm 1838: đã khảo sát 25 đảo và vẽ được 4 bản đồ, khẳng định việc quản lý liên tục

Ngay cả việc vẽ bản đồ không đạt yêu cầu cũng bị phạt. Nhân viên Giám thành Trần Văn Tân, Nguyễn Văn Tiện, Nguyễn Văn Hoằng bị phạt 80 trượng vì vẽ bản đồ không rõ ràng (Châu bản 7). Mức độ chi tiết và nghiêm khắc trong quản lý này là bằng chứng không thể chối cãi. Nó khác xa những chi tiết lãng mạn hóa trong những câu chuyện truyền miệng như Truyện ma Miếu Hoang – tập 39.

Cắm Mốc Chủ Quyền và Dựng Bia Miếu

Hoạt động cắm mốc giới được phản ánh rõ trong Đại Nam thực lục chính biênChâu bản 9. Năm 1836, đội khảo sát Hoàng Sa do Chánh đội trưởng thủy quân Phạm Hữu Nhật cầm đầu được lệnh mang theo cọc gỗ (mộc bài).

Trên Châu bản có đoạn phê: “Thuyền đến xứ nào tức thì dựng cọc gỗ làm mốc” (Châu bản 9). Mộc bài dài 5 thước (2m), khắc rõ dòng chữ to: “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính Thân, Chánh đội trưởng Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc, đến đây lưu lại những chữ này.”

Châu bản 9, bản trắng đen, ghi chép việc chuẩn bị cọc gỗ (mộc bài) để đoàn khảo sát Hoàng Sa năm 1836 cắm làm mốc giới chủ quyềnChâu bản 9, bản trắng đen, ghi chép việc chuẩn bị cọc gỗ (mộc bài) để đoàn khảo sát Hoàng Sa năm 1836 cắm làm mốc giới chủ quyền

Đây là cách cắm mốc biểu thị chủ quyền quốc gia mang tính pháp lý cao nhất, có ghi rõ năm tháng chính thức của vương triều và tên quan chức nhà nước, kết thúc bằng cụm từ quyền lực “Khâm thử” (Hãy tuân lệnh).

Nhà Nguyễn còn chủ trương trồng cây, lập miếu và dựng bia. Năm 1833, vua Minh Mệnh sai người trồng cây để “sau cây cối to lớn, xanh tốt, người dễ phân biệt, ngõ hầu tránh được nạn mắc cạn. Đó cũng là việc lợi muôn đời” (ĐNTL, T.3, tr. 743).

Năm 1835, triều đình cho xây miếu và dựng bia trên một cồn cát trắng (tên cũ là núi Phật Tự). Tòa miếu được xây cách tòa miếu cổ 7 trượng (28m). Bia đá cao 0,60m, khắc dòng chữ “Vạn Lý Ba Bình” (muôn dặm sóng yên). Miếu và bia có giá trị như một thứ mốc chủ quyền văn hóa và hành chính.

Cứu Hộ Tàu Thuyền Nước Ngoài

Hoàng Sa và Trường Sa là vùng biển hiểm yếu, thường gây tai nạn cho tàu thuyền. Triều Nguyễn đã thực hiện nghĩa vụ cứu hộ quốc tế, một hành động minh chứng cho việc kiểm soát và quản lý vùng biển này.

Bốn tờ Châu bản ngày 27 tháng 6 năm Minh Mệnh 11 (1830) ghi lại vụ cứu hộ tàu buôn Pháp. Chủ tàu Pháp tên là Đô-ô-chi-ly, chở phái viên Lê Quang Quỳnh, bị mắc cạn phía tây Hoàng Sa. Thủ ngự cửa biển Đà Nẵng Nguyễn Văn Ngự đã “lập tức cho thuyền tuần tiễu ở cửa tấn mang nước ngọt ra biển tìm kiếm” (Châu bản 1, 2, 3, 4). Thuyền tuần tiễu đã đưa chủ thuyền, phái viên, và 15 thủy thủ về cửa tấn an toàn.

Châu bản 1, hai tờ, là văn bản gốc ghi lại tấu trình của Thủ ngự Đà Nẵng về việc tổ chức cứu hộ tàu buôn Pháp bị nạn ở Hoàng Sa năm 1830Châu bản 1, hai tờ, là văn bản gốc ghi lại tấu trình của Thủ ngự Đà Nẵng về việc tổ chức cứu hộ tàu buôn Pháp bị nạn ở Hoàng Sa năm 1830

Một trường hợp khác năm 1836, thuyền buôn Anh Cát Lợi bị đắm, hơn 90 người trôi dạt vào Bình Định. Vua Minh Mệnh lệnh tỉnh thần cấp nơi trú ngụ, tiền gạo, và cử phái viên Nguyễn Tri Phương, Vũ Văn Giải đưa họ về nước. Sự cứu giúp này làm cho họ rất cảm kích (ĐNTL, T. 4, tr. 1058). Những hành động nhân đạo và trách nhiệm này củng cố vị thế pháp lý của Việt Nam trên Biển Đông.

Những Châu bản này, như một Truyện ma Miếu Hoang – tập 39 được giải mã, không chỉ là tài liệu lưu trữ. Chúng là bằng chứng pháp lý sống động về chủ quyền không thể chối cãi, được tạo ra và kiểm soát bởi chính quyền trung ương. Đây là sự thật lịch sử, không phải hư cấu, về việc triều Nguyễn đã xác lập và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo.

Tổng Kết Giá Trị Kép Của Châu Bản

Nghiên cứu Châu bản triều Nguyễn khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam từ thế kỷ XVII. Triều Nguyễn đã nâng công tác quản lý và thực thi chủ quyền lên tầm quốc gia, do Hoàng đế trực tiếp chỉ đạo và phê duyệt. Nhận thức này cho thấy sự sâu sắc về vị thế chiến lược của hai quần đảo, được coi là “cương giới trên biển nước ta, xứ Hoàng Sa là tối trọng yếu.”

Lực lượng thực thi chủ quyền đã chuyển đổi từ dân binh sang lực lượng thường trực nhà nước, gồm thủy binh và vệ Giám thành, nhưng vẫn kết hợp kinh nghiệm đi biển quý giá của dân phu Quảng Ngãi. Mọi hoạt động được tổ chức quy củ: đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ, ghi chép Nhật ký, cắm cột mốc chủ quyền, trồng cây, xây miếu, dựng bia, và thu lượm sản vật. Chế độ thưởng phạt công bằng và nghiêm minh, vừa đề cao nhiệm vụ công sai, vừa ưu ái cho những người lính và dân phu.

Những tờ Châu bản triều Nguyễn mang dấu “Ngự phê” màu son đỏ của Hoàng đế và ấn tín của các cơ quan triều đình. Chúng là những văn bản mang tính pháp lý cao nhất của quốc gia theo chế độ quân chủ tập quyền. Do đó, các Châu bản liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa là những chứng cứ mang giá trị kép, vừa lịch sử, vừa pháp lý. Chúng là bằng chứng có sức thuyết phục cao và không thể tranh cãi về chủ quyền của Việt Nam. Đây là câu trả lời khoa học, dứt khoát, vượt qua mọi suy đoán bí ẩn hay kịch tính hóa như Truyện ma Miếu Hoang – tập 39 có thể gợi lên. Châu bản là nền tảng vững chắc cho lập trường của Việt Nam trên Biển Đông.

Mục nhập này đã được đăng trong Bí ẩn. Đánh dấu trang permalink.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *