04/06/2021 11:38 View: 21322

Ngũ vị tôn quan là ai?

Trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, chúng ta thường hay nghe thấy ngũ vị tôn quan. Vậy Ngũ Vị Tôn Quan là ai? Quyền phép, thần tích và văn khấn Ngũ vị Tôn Quan như thế nào? Ngũ Vị Tôn Quan hiện được thờ ở những đâu?

ngu vi ton ong, ngu vi ton quan, tho mau

Ngũ Vị Tôn Quan còn được gọi là Ngũ Vị Tôn Ông hay Ngũ Vị Quan Lớn, đây là 5 vị đại quan có vai trò rất quan trọng trong hệ thống Tứ Phủ Công Đồng

1.Quan Lớn Đệ Nhất:

Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên. Hay còn gọi là Đệ Nhất Tôn Ông. Quan lớn vốn là con trai cả của Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình, được coi là Ông Lớn cai quản Thượng Thiên. Tương truyền ông là Tôn Quan Đại Thần trên Đế Đình Thiên Cung, được sắc phong ngôi Thượng Thiên Nhất Phẩm Công Hầu, quản cai tam giới đình thần văn võ. Nhưng ông không giáng trần.

Quan Đệ Nhất cũng ít khi về ngự đồng, chỉ những dịp có đại sự như: mở phủ, tạ phủ, hầu xông đền xông điện thì quan mới về ngự đồng. Khi ngự đồng, ông mặc áo đỏ thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp trạng mã. Thông thường khi khai đàn mở phủ, người ta phải thỉnh Quan Đệ Nhất về chứng đàn Thiên Phủ (Thượng Thiên: đàn gồm có long chu phượng mã (ngựa và thuyền rồng) … tất cả đều màu đỏ).

Do không giáng trần nên Quan Lớn Đệ Nhất không có đền và ngày tiệc chính, nhưng ở trong bất cứ đền nào cũng có tượng ông, ngồi giữa trong Năm Tòa Ông Lớn, mặc áo bào đỏ, đội mũ cánh chuồn. Khi ông ngự đồng văn thường hát:

“Hương một chiện chín lần soi thấu
Dãi lòng trần khải tấu linh thông
Thỉnh mời Đệ Nhất Tôn Ông
Lai lâm trắc giáng điện trung oai hùng”

Hay cũng có hát rằng:

“Anh linh lục trí thần thông
Quyền cai tam giới uy phong phép màu
Thượng Thiên xa giá lên chầu
Khâm ban sắc chỉ Công Hầu ra uy”

2.Quan Lớn Đệ Nhị:

Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn. Hay còn gọi là Quan Đệ Nhị Giám Sát (có một số người gọi là Quan Thanh Tra Giám Sát). Quan lớn vốn là con trai thứ hai của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông theo lệnh Vua Cha, hạ phàm đầu thai vào Hoàng Cung (có sách nói là ông hạ phàm ngày mồng ba tháng mười một năm Ất Dậu vào một nhà quý tộc) ngày mồng mười tháng mười một năm Bính Dần

Ông là người văn võ toàn tài, thông minh chính trực, được khắp muôn nơi ngưỡng mộ, các vương tôn công tử đều thuận tình đến làm học trò. Đến khi về chầu Thiên Đình, ông lại được giao quyền giám sát quản cai Sơn Lâm, Thượng Ngàn, ông giáng thế ban phúc cho dân, khi dân chúng bị hạn hán, cầu đảo ông thì lập tức có mưa thuận gió hòa.

Quan Đệ Nhị là một trong ba vị quan lớn rất hay ngự về đồng (kể cả trong những ngày tiệc vui). Khi ngự đồng, ông mặc áo xanh ( xanh la hay xanh lá cây) thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ và múa kiếm (cách hầu Quan Giám Sát thì có nơi múa đôi kiếm, có nơi múa một kiếm, có nơi lại múa một kiếm một cờ).

Cũng như Quan Đệ Nhất, khi khai đàn mở phủ, người ta thỉnh Quan Đệ Nhị về chứng đàn Nhạc Phủ (Thượng Ngàn: đàn mã đều màu xanh). Ngoài ra vào những dịp đại lễ (như mở phủ khai đàn, tạ phủ…), trước ngày làm lễ, người ta thường thỉnh Quan Đệ Nhị về thanh tra giám sát đàn mã đền phủ.

Quan Giám Sát được thờ ở hai nơi chính là: Đền Quan Giám ở trên huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn (là nơi quan trấn giữ miền Sơn Lâm) và Đền Quan ở Phố Cát, Thanh Hóa (là nơi quan giáng hạ dạo chơi) và ngày tiệc chính của ông là ngày 10/11 âm lịch (là ngày hạ phàm của quan). Vì vậy trong khi quan ngự văn có hát rằng:

“Nhác trông lên tòa vàng san sát
Không đâu bằng Phố Cát, Đồi Ngang”

Hay để ca ngợi tài trí của Quan Giám Sát, văn hát rằng:

“Phép quan giá vũ đằng vân
Khắp muôn công tử xa gần làm tôi
Trời làm đại hạn nắng nôi
Kiều quan đảo vũ một thôi giờ Dần
Lệnh sai Hà Bá, Thủy Thần
Tự nhiên dâng nước xoay vần mưa sa”

Hay khi nói về điển tích của ông cũng có văn rằng:

“Năm Bính Dần mồng mười tháng một
Thái Hậu bà sinh giáng tôn quan”

3.Quan Lớn Đệ Tam:

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ. Hay còn gọi là Tam Phủ Vương Quan (Tam Phủ ở đây không phải là số lượng Phủ mà ý chỉ Thuỷ Phủ là phủ thứ ba trong hàng Tứ Phủ, vậy nên còn có thể gọi là Bơ Phủ Vương Quan). Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương.

Dưới thời Hùng Vương, theo lệnh vua cha, ông cùng hai người em (có sách nói là hai người thân cận) lên giúp Vua Hùng chỉ huy thuỷ binh, lúc này ba vị giáng ở đất Hà Nam, được nhân dân tôn thành “Tam Vị Đại Vương”, trong đó, Quan Đệ Tam là người anh cả trong ba người. Nhưng lại có điển tích nói rằng, chỉ có một mình Quan Tam Phủ giáng trần vào nhà quý tộc dưới thời Hùng Vương, ông trở thành vị tướng quân thống lĩnh ba quân thuỷ lục. Sau đó trong một trận quyết chiến, ông hy sinh (phần thượng thân (đầu) và hạ thân (mình) trôi về hai bên bờ con sông Lục Đầu).

Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng). Khi thanh nhàn ông truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, phù hộ cho ngư dân.

Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu. Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng).

Trong hàng quan lớn, vì danh tiếng bậc nhất nên Quan Lớn Đệ Tam cũng được lập đền thờ phụng ở khắp nơi. Nhưng đầu tiên phải kể đến Đền Lảnh Giang ở Mộc Nam, Duy Tiên, Hà Nam (gần Hưng Yên) tương truyền là nơi hạ thân của ông trôi về, sau đó phải nói đến Đền Xích Đằng cũng thuộc Hà Nam (hai ngôi đền này chỉ cách nhau cây cầu Yên Lệnh nối hai bờ sông Lục Đầu) là nơi thờ thượng thân của ngài.

Ngoài ra còn có Đền Cửa Đông tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (gần Đền Mẫu Thoải), Đền Lâm Du thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội và Đền Tam Kì thuộc thành phố Hải Phòng (gần bến xe Tam Bạc). Ngày tiệc của Quan Bơ Phủ là ngày 24/6 âm lịch (tương truyền là ngày đản nhật giáng sinh của ông). Vậy nên trong văn hát câu rằng:

“ Đản hai tư tháng sáu xưng thần
Khắp Trung, Nam, Bắc muôn dân đảo cầu”

Khi ông về ngự đồng, khai quang chứng đàn mã sớ điệp, văn thường hát đoạn:

“Lòng thành thắp một chiện nhang
Tấu về Thoải Phủ các ban các toà
Thiên Đình, Thoải Phủ, Diêm La
Tấu về Thoải Phủ Vua Cha Động Đình
Vốn xưa là chúa Thủy Tinh…”

Ngoài ra để ca ngợi tài đức, công lao của ông, văn cũng hát:

“Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông
[…] Gươm thần ba thước tay ngang dọc
Tài dậy trời Tây, chí lấp bể Đông”

Hay khi nói về những cuộc dạo chơi khắp sơn thoải đại giang của ông, văn thường hát theo điệu dọc:

Chiếc thuyền nan nổi dòng Xích Bích
Đua mái chèo du lịch bốn phương
Có phen tuần thú sông Thương
Trở ra tỉnh Bắc qua giang Lục Đầu
[…] Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc
Bạn loan ngồi đàn hát vui chơi
Dạo xem phong cảnh mọi nơi
Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người”

Và còn có một đoạn rất hay nói về tài phép của quan:

“Hoá tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”

4.Quan Lớn Đệ Tứ:

Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai. Quan lớn vốn là con trai thứ tư của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Được vua cha giao quyền trấn giữ đồng bằng địa linh, khâm sai tứ phủ (có người cho rằng, trong các quan thì ông trấn ở trung tâm trời đất), tuy thế nhưng ông thường ngự trên Thiên Đình, biên chép sổ sách sinh tử, chầu chực bên bệ ngọc bàn loan. Cũng như Quan Đệ Nhất, Quan Đệ Tứ không giáng trần.

Trong toà quan lớn, Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai ít khi giáng đồng nhất, cũng chỉ khi nào có đại lễ mới thỉnh ông về. Khi ngự đồng ông mặc áo vàng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương khai quang rồi chứng sớ điệp. Thông thường, khi mở phủ khai đàn, người ta mới hay thỉnh Quan Đệ Tứ về để chứng đàn Địa Phủ (gồm long chu, phượng mã, tượng phục, nghê quỳ (voi và nghê hoặc lân)… tất cả đều màu vàng)

Vì không giáng trần nên Quan Đệ Tứ cũng không có đền thờ riêng mà chỉ được thờ ở hầu hết các phủ đền trong Năm Toà Ông Lớn (ông ngồi bên trái Quan Giám Sát hoặc bên phải Quan Tam Phủ). Còn ngày tiệc ông thì có tài liệu nói là 24/4 (nhưng nguồn tài liệu chưa chắc chắn nên chỉ đưa ra để tham khảo). Khi thỉnh Quan Đệ Tứ văn hay hát là:

“Tiệc bàn loan thỉnh Quan Đệ Tứ
Vốn con trời Thái Tử Thiên Cung
Sắc rồng choi chói vua phong
Quyền Quan Đệ Tứ uy hùng dậy vang”

5.Quan Lớn Đệ Ngũ:

Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh. Hay còn gọi là Ông Lớn Tuần Tranh. Ông là con trai thứ năm của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Ông cũng giáng dưới thời Hùng Định Vương (Hùng Triều Thập Bát), trong một gia đình ở phủ Ninh Giang (nay là Hải Dương), ông cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong công hầu.

Tại quê nhà, ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp, người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ của quan huyện ở đó, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung”, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện, vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình. Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, ông đã tự sát mong rửa oan, chứng tỏ mình vô tội, ông hoá xuống dòng sông Kì Cùng.

Về lại nơi quê nhà, ông hiện thành đôi bạch xà, thử lòng ông bà nông lão, sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình. Nhưng khi quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.

Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống giặc Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.

Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy trong hàng Năm Toà Ông Lớn, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).

Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.

Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất: đầu tiên là Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích) và Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày).

Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan. Trong khi thỉnh ông về, văn thường hát:

“Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
[…] Ninh Giang chính quán quê nhà
Dấu thiêng ghi để ngã ba Kì Cùng”

Hay nói về nỗi oan của ông, văn hát sử oán rằng:

“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Oan vì bướm lả ong lơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường ”

Hoặc có cả những đoạn ca ngợi công lao, tài đức của ông:

“Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Đao thiêng dẹp giặc, anh hùng là ai
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Anh hùng lừng lẫy là người Ninh Giang”

Còn khi quan ngự đồng, khai quang chứng sớ điệp, ra oai giúp dân trừ tà thì văn hát rằng:

“Ông về truyền phán các quan
Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn
Quân thuỷ quân bộ đôi hàng
Chư binh vạn mã hằng hà kéo ra
Lệnh truyền thiên đội vạn cơ
Quan Tuần bây giờ trắc giáng anh linh
Trước là bảo hộ gia đình
Sau ra thu tróc tà tinh phen này
Ra oai trần thế biết tay
Ngự lên đồng tử cứu rày nhân gian
Cứu đâu thời đấy khỏi oan…”

Và còn những đoạn nói về tài phép của quan lớn, giúp dân hộ quốc:

“Sắc ban phong kiêm chi Tam Giới
Hay tróc tà sát quỷ trừ tinh
Quan Tuần vạn phép muôn linh
Quyền ông cai quản âm binh nhà trời
[…] Lúc bấy giờ ra uy hùng hổ
Nương uy trời cứu hộ sinh nhân
Đùng đùng nổi trận phong vân
Thượng đồng ban dấu giúp dân trừ tà”

Văn khấn trong đền - phủ - điện

Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư phật mười phương. Cung thỉnh chư Thánh, cung thỉnh chư thiên cung tấu thỉnh thiên đình đại đế.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư phật mười phương.
Cung thỉnh chư Thánh, cung thỉnh chư thiên cung tấu thỉnh thiên đình đại đế.
Con xin sám hối Tam phủ thần vương, tứ phủ thánh đế.
Con xin sám hối Thiên phủ Thánh Đế – Cao thiên Thượng thánh - Đại từ Nhân giả – Huyền khung Cao Thượng đế - Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn.
Con sám hối Nhạc Phủ Thánh Đế – (Tản Viên Sơn Thánh) - ngũ nhạc thần vương – năm phương sơn động.
Con sám hối Thủy Phủ Thánh Đế – (Lạc Long Quân Đại Đế) – Bát Hải Long Vương – tám phương cửa bể.
Con sám hối Địa phủ Thánh Đế - thập điện minh vưong tòa chương địa phủ Bắc Cực Trung Thiên Tam nguyên tam phẩm tam quan.
Con sám hối Đại Thánh Nam Tào Lục Ty duyên thọ tinh quân.
Con sám hối Đại Thánh Bắc Đẩu Cửu hoàn giải ách tinh quân Cửu tinh thiên chúa thập nhị bát tú chư bộ thiên binh chư dinh văn võ.
Con sám hối tấu lạy quốc mẫu vua bà bơ tòa tiên thánh tứ phủ Thánh Mẫu:
Kính lạy Cửu trùng thánh mẫu bán thiên công Chúa Thiên tiên thánh mẫu
Kính lạy địa tiên thánh mẫu quỳnh hoa Liễu Hạnh Vân Hương Thánh Mẫu
Mã Hoàng Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương thiên tiên Thánh Mẫu.
Kính lạy Thánh Mẫu Đệ Tam thủy cung, Xích Lân long Nữ,Thủy Tinh Công chúa. Kính lạy Đức Mẫu thượng ngàn Diệu nghĩa diệu tín thiền sư Tuần Quán Đông Cuông đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương
Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh Bách vị các quan ngũ vị tôn quan: Quan đệ nhất Thượng Thiên; Quan đệ nhị thượng ngàn; Quan đệ tam thoải phủ; Quan đệ tứ khâm sai; Quan đệ ngũ tuần tranh. Con sám hối điều thất tôn quan - Hoàng triệu tôn quan.
Con lạy tứ phủ chầu bà thập nhị chầu bà: Chầu đệ nhất thượng thiên; Chầu đệ nhị thượng ngàn; Chầu đệ tam thủy phủ; Chầu đệ tứ khâm sai; Chầu năm Suối Lân; Chầu sáu Lục Cung ; Chầu bảy Kim Giao; Chầu tám Bát Nàn; Chầu chín cửu tỉnh; Chầu mười Mỏ Ba; Chầu Bé Bắc Lệ; Chầu bà thủ đền.
Con lạy Tứ phủ thánh hoàng thập vị thánh hoàng: sám hối ông bơ thoải quốc động chủ hưng long, ông bảy Bảo Hà, ông mười Mỏ hạc nghệ an.
Sám hối tứ phủ thánh cô: Cô đệ nhất thượng thiên; Cô đôi bồng lai; Cô bơ Thác Hàn; Cô tư tây hồ; Cô năm Suối Lân; Cô sáu Lục Cung; Cô bảy Kim Giao; Cô tám đồi chè; Cô Chín Sòng Sơn; Cô mười Đồng Mỏ; Cô bé sơn lâm; Cô bé bản đền
Sám hối tứ phủ thánh cậu: cậu cả; cậu đôi; cậu bơ; cậu bé đồi ngang.
Con lạy ngũ dinh thần tướng - ngũ hổ thần quan.
Con lạy đại tướng thanh xà - bạch xà tướng quân.
Con lạy công đồng các bóng các giá, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
Con lạy chầu chúa thủ đền cùng quan thủ điện, thổ địa thần kỳ thần linh bản xứ.

Đệ tử con là:………………………………………. ……………………………
Ngụ tại:…………………………………….…………………………………….
Kim niên kim nguyệt, cát nhật lương thời ….niên…nguyệt…..thời.
Đệ tử con nhất tâm nhất lễ đêm tưởng ngày mong nhất tâm chí thiết nhất dạ chí thành nhất tâm tưởng vạn tâm cầu - tu thiết nhang hoa lễ vật tờ đơn cánh sớ.

Mang miệng tới tâu – mang đầu tới bái – cửa đình thần tam tứ phủ. Trên mẫu độ dưới gia hộ mẫu thương – vuốt ve che chở – phù hộ độ trì.

Cho con: ba tháng hè chín tháng đông – đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối. Tứ thời bát tiết – tháng thuấn ngày nghiêu – phong thuận vũ hòa – tai qua nạn khỏi.  Mẫu cho con được sáng hai con mắt – bằng hai bàn chân ; Mẫu ban lộc dương tiếp lộc âm – cho lộc mùa xuân cho tài mùa hạ; Cho tươi như lá cho đẹp như hoa – phúc lộc đề đa tiền tài mang tới. Mẫu cho con lộc ăn lộc nói – lộc gói lộc mở, lộc gần lộc xa; Hồ hết lại có hồ vơi lại đầy – điều lành mang đến điều dữ mang đi; Mẫu cứu âm độ dương cứu đường độ chợ – vuốt ve che chở nắn nở mở mang; Cải hung vi cát cải hạo vi tường – thay son đổ số nảy mực cầm cân

Mẫu phê chữ đỏ Mẫu bỏ chữ đen, cho con được trăm sự tốt vạn sự lành, trên quý dưới yêu, trên vì dưới nể - cho gặp thầy gặp bạn gặp vạn sự lành. Mẫu ban danh bạn diện ban quyền, cho con có lương có  thực có ngân có xuyến - tài như xuyên chí lộc tựa vân lai; Cầu tài đắc tài cầu lộc đắc lộc – cầu bình an đắc bình an; Trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá phúc lộc đề đa; Cho trên thuận dưới hòa – trên bảo dưới nghe trên đe dưới sợ. Mẫu cho nước chảy một dòng – thuyền xuôi một bến, bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ; Năm xung Mẫu giải xung – tháng hạn giải hạn; Cho gia trung con được trong ấm ngoài êm, nhân khang vật thịnh duyên sinh trường thọ.

Đệ tử con người trần mắt thịt nhỡn nhục nan chi việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ. Tuổi con còn trẻ, tóc con còn xanh ăn, con ăn chưa sạch, con bạch chưa thông. Ăn chưa nên đọi, nói chưa nên lời, không biết kêu sao cho thấu, tấu sao cho tường. Con biết tới đâu con tâu tới đấy, ba điều không sảy bảy điều không sai. Trăm tội mẫu xá vạn tội mẫu thương. Mẫu xá u xá mê xá lỗi xá lầm. Mẫu soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội biết lối mà lần.

Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành, con giàu một bó khó một nén, mong Mẫu gia hộ cho con ạ.

Nam mô vân hương đại từ tôn bồ tát ma ha tát !!!

Cẩn cáo!