Truyện Ma Miếu Hoang – Tập 82: Bí Ẩn Phía Sau 82 Tấm Bia Lưu Danh Nho Sĩ

Đề tài “Lưỡng long hóa mây chầu nhật nguyệt” trang trí trên trán bia tiến sĩ năm 1763

Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trung tâm giáo dục và nguyên khí quốc gia của Đại Việt, ẩn chứa một kho tàng lịch sử khổng lồ: 82 tấm bia Tiến sĩ. Đây là những “pho sử đá” quý giá, ghi danh 1304 vị hiền tài đỗ đại khoa từ năm 1442 đến 1779. Với tập 82 này, chúng ta sẽ đi sâu vào khám phá ý nghĩa sâu sắc và những thông điệp răn dạy vượt thời gian được khắc trên những tấm bia đá này, phản ánh trọn vẹn truyền thống tôn sư trọng đạo và khát vọng trường tồn của nền văn hiến Việt Nam. Nội dung đặc biệt này tập trung vào việc giải mã toàn bộ ý nghĩa của hệ thống bia đá được UNESCO công nhận, đặc biệt là tấm bia cuối cùng mang ý nghĩa đóng lại chuỗi 82 khoa thi.

Cấu Trúc Và Phong Cách Nghệ Thuật Của 82 Bia Tiến Sĩ

Hệ thống 82 bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám không chỉ là di sản tư liệu mà còn là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc đỉnh cao của Việt Nam thời quân chủ. Mỗi tấm bia đều được chế tác theo cùng một phong cách: loại bia dẹt, gồm hai phần chính là bia và đế bia hình rùa. Sự khác biệt về kích thước và hoa văn trang trí qua từng thời kỳ đã tạo nên tính đa dạng, phản ánh phong cách mỹ thuật của các triều đại.

Đá Thanh Thạch: Chất Liệu Mang Khí Chất Bền Vững Của Hiền Tài

Chất liệu đá thanh thạch (đá xanh lam, ánh màu khói biếc) được sử dụng để tạc bia. Chúng được khai thác từ dãy núi An Hoạch, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Loại đá này có thớ mịn, ít hợp chất, liền khối và độ phong hóa thấp.

Đây là yếu tố then chốt giúp 82 tấm bia Tiến sĩ vượt qua thử thách của gần sáu thế kỷ mà vẫn giữ được tính nguyên vẹn và sự sắc nét. Nó minh chứng cho tính xác thực và tính độc đáo mà UNESCO đòi hỏi ở một di sản.

Văn bia chùa Báo Ân tại núi An Hoạch từng mô tả đá này: “Sắc đá óng ánh như ngọc lam, chất xanh biếc như khói nhạt.” Chính sự bền bỉ của chất liệu đã góp phần đưa bia Tiến sĩ thành hiện vật “độc đáo, quý hiếm, không thể thay thế.”

Việc chọn đá, tuyển thợ khắc đều do Bộ Công đảm nhiệm, cho thấy sự nghiêm túc của triều đình. Trên văn bia khoa thi Mậu Thìn (1748), có ghi rõ việc “lấy đá làng An Hoạch, huyện Đông Sơn vâng mệnh khắc chữ.”

Rùa Đá: Biểu Tượng Của Sự Trường Tồn Và Tri Thức

Mỗi tấm bia đều được đặt trên lưng một con rùa đá. Hình tượng rùa đội bia là biểu tượng sâu sắc cho sự trường tồn, bền vững của hiền tài và nền giáo dục quốc gia. Rùa đá Văn Miếu có hình dáng biến đổi theo ba loại, tùy thuộc vào niên đại dựng bia.

Phân Loại Rùa Theo Niên Đại Dựng Bia

Rùa loại I, từ năm 1484 đến 1536, có đầu trơn, tròn, tư thế ngẩng cao như đang bơi. Mắt to, mai cong đều, đường nét tinh tế, thể hiện cốt cách khoan hòa, trang nghiêm của kẻ sĩ thời Lê Sơ.

Rùa loại II, dựng cùng một năm 1653, được phác họa bằng những khối vuông, góc cạnh. Đường nét đơn giản, dứt khoát. Đặc trưng là đầu hơi chếch hoặc bằng ngang, mặt bẹt, tạo hình chữ T ở trán và sống mũi.

Rùa loại III, từ năm 1717 đến 1780, tạo tác gần giống con rùa thực tế hơn, với cổ ngắn, mũi to, mắt tròn nhỏ. Mai rùa cong, chạm khắc hoa văn “Quy bối” (hình lục lăng). Đây là nhóm bia lớn nhất.

Hình tượng rùa đội bia là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tâm linh và tri thức. Nó không chỉ là bệ đỡ vật chất. Nó còn là biểu tượng tinh thần, khẳng định tính vĩnh cửu của đạo học.

Nghệ Thuật Trang Trí: Ngôn Ngữ Của Ước Vọng Đăng Khoa

Hoa văn trang trí trên bia Tiến sĩ mang ý nghĩa phong phú. Chúng truyền tải ước vọng thành đạt và niềm hân hoan khi đạo học phát triển. Diềm bia và trán bia là nơi tập trung các đồ án mỹ thuật suất sắc.

Đồ Án Linh Vật: Rồng Và Phượng

Trong 82 tấm bia, có tới 46 bia được trang trí hình rồng. Chủ yếu là đề tài “Lưỡng long chầu nhật nguyệt.” Nhật nguyệt tượng trưng cho nguồn sáng trí tuệ vĩnh cửu.

“Rồng thức” (Rồng ba móng): Hình rồng uốn khúc dũng mãnh, vi vảy chạm rõ, thể hiện sự uy nghi. Kiểu thức này xuất hiện lần đầu trên bia khoa thi năm 1565. Tấm bia khoa thi năm 1607 còn có đề tài “Lưỡng long tranh châu.”

“Rồng hóa mây”: Bắt đầu từ khoa thi năm 1656. Rồng được tạo hình từ những đám mây, mang vẻ uyển chuyển, biến hóa. Kiểu thức này được sử dụng trên 31 tấm bia sau đó.

Tấm bia khoa thi năm 1589 là tấm bia duy nhất chạm khắc đôi chim phượng hoàng chầu vầng nhật nguyệt. Phượng hoàng biểu thị cho sự cao quý và điềm lành.

Đề tài “Lưỡng long hóa mây chầu nhật nguyệt” trang trí trên trán bia tiến sĩ năm 1763Đề tài “Lưỡng long hóa mây chầu nhật nguyệt” trang trí trên trán bia tiến sĩ năm 1763

Đồ Án Thực Vật Và Dân Gian Độc Đáo

Đồ án hoa Bảo Tiên, kết hợp hoa sen, mẫu đơn và hoa cúc, là họa tiết phổ biến trên diềm bia. Hoa Bảo Tiên thể hiện sự hài hòa Tam giáo trong xã hội Việt Nam.

Đồ án “Lộ lộ liên hoa” (cò và sen) trên diềm chân bia khoa thi năm 1589 rất đáng chú ý. Đây là cảnh đầm sen rộng lớn với đàn cò vịt kiếm ăn. Trong mỹ thuật, nó ẩn dụ cho sự hiển đạt hanh thông, đăng khoa liên tiếp.

Hình ảnh con Trâu trên diềm bia khoa thi năm 1643 là tấm bia duy nhất có linh vật này. Trâu tượng trưng cho nông nghiệp, sự chăm chỉ, và gợi nhớ Lễ Tịch Điền. Nó nhấn mạnh trọng trách của kẻ sĩ phải giúp nước, xây dựng quê hương ấm no.

Đồ án “Lộ lộ liên hoa” (cò và hoa sen) hoa văn trang trí diềm chân bia Tiến sĩ khoa thi 1589Đồ án “Lộ lộ liên hoa” (cò và hoa sen) hoa văn trang trí diềm chân bia Tiến sĩ khoa thi 1589

Quá Trình Dựng Bia: 300 Năm Khẳng Định Văn Hiến

Việc dựng bia Tiến sĩ không được thực hiện ngay sau mỗi kỳ thi. Nó thường tập trung vào từng đợt lớn theo sắc chỉ của nhà vua.

Đợt 1 (1484) dưới triều Lê Thánh Tông, dựng 10 bia cho các khoa thi từ 1442 đến 1484 (hiện còn 7 tấm). Đây là đợt khởi đầu cho quy chế dựng bia.

Đợt 2 (1653) dựng 25 bia cho các khoa từ 1554 đến 1652. Giai đoạn này đánh dấu sự bùng nổ của nghệ thuật điêu khắc.

Đợt 3 (1717) dựng 21 bia cho các khoa từ 1656 đến 1712. Các bia giai đoạn này có kích thước lớn hơn.

Hai mươi sáu bia còn lại được dựng rải rác từ 1721 đến 1780. Tấm bia cuối cùng được dựng năm 1780 cho khoa thi năm 1779.

Sự kiện dựng bia đầu tiên (1484) được tổ chức trọng thể vào ngày rằm tháng Tám. Vua Lê Thánh Tông sai Lễ Bộ Thượng thư Quách Đình Bảo biên rõ họ tên, thứ bậc các Tiến sĩ để khắc vào đá.

Giá Trị Vượt Thời Gian Của Văn Bia

Giá trị cốt lõi của 82 bia Tiến sĩ nằm ở phần bài văn bia (ký), được khắc bằng chữ Hán cổ. Những bài ký này không chỉ ghi lại thông tin khoa thi mà còn là những áng văn triết lý sâu sắc. Chúng khẳng định đạo trị quốc và đạo làm người của kẻ sĩ.

“Hiền Tài Là Nguyên Khí Quốc Gia”: Kim Chỉ Nam Muôn Đời

Tư tưởng nổi tiếng nhất được khắc trên tấm bia đầu tiên (khoa 1442) do Hàn lâm viện Thừa chỉ, Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung soạn. Đó là: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn.”

Quan điểm này được nhắc đi nhắc lại, khẳng định tầm quan trọng của nhân tài là quốc sách. Lê Tung (khoa 1511) viết: “Vua nào muốn có trị bình, ắt phải coi việc dùng hiền kén sĩ làm việc đầu tiên.”

Bài ký khoa thi 1448 nhấn mạnh: “Sự lớn lao của nền chính trị bậc đế vương không gì quan trọng bằng việc trọng dụng nhân tài…” Đường lối trị quốc dựa vào nhân tài luôn được khẳng định, và luôn đúng.

Răn Dạy Kẻ Sĩ: Trách Nhiệm Với Danh Dự Và Đất Nước

Mục đích sâu xa của việc dựng bia là khuyến khích răn đe. Bia đá đóng vai trò như một “tấm gương đạo lý” để kẻ sĩ tự soi mình.

Kẻ sĩ được nhắc nhở phải tu dưỡng đạo đức: “phải cốt ở thực chất, lánh bỏ hư danh, văn chương phải cứng cỏi hồn thuận” (Văn bia khoa thi 1496). Họ phải tránh xa sự gian tà và tham lam.

Văn bia khoa thi năm 1631 nhấn mạnh trách nhiệm của kẻ sĩ khi làm quan là phải: “nêu cao đức liêm khiết, cần mẫn; bịt lấp ngõ tham lam, ganh ghét; lấy lòng trung thờ vua, đem ơn huệ cho dân.”

Văn bia khoa 1683 cảnh báo rõ: “Thảng hoặc không được như thế, chỉ nặng nghĩ lo riêng cho mình mà nhẹ lòng vì việc nước, cầu may cho được chu toàn, thích xu nịnh, né tránh việc mất lòng, ắt không tránh khỏi công luận mai sau.”

Những Danh Sĩ Nổi Bật Được Khắc Trên Bia

Hàng trăm danh nhân lớn trong lịch sử Việt Nam đã được khắc tên trên 82 tấm bia này. Họ đại diện cho những dòng họ và vùng đất hiếu học, thể hiện sự vinh quang của nền văn hiến.

Nguyễn Nhân Thiệm – Hoàng Giáp Xứ Thanh (1583)

Nguyễn Nhân Thiệm (1563-1645) là một danh sĩ xứ Thanh. Ông người xã Bột Thái, huyện Hoằng Hóa (nay là xã Hoằng Lộc).

Năm Quý Mùi (1583), niên hiệu Quang Hưng thứ 6, ông đỗ Đình nguyên, Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khi mới 21 tuổi. Ông làm quan đến chức Thái thường tự khanh. Tên ông được khắc trên bia Tiến sĩ khoa thi 1583.

Lê Quý Đôn: Nhà Bác Học Lỗi Lạc (1752)

Lê Quý Đôn (1726-1784) là một trong những nhà bác học lỗi lạc nhất Việt Nam. Ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh (Bảng nhãn) khoa Nhâm Thân (1752) khi 27 tuổi.

Tấm bia khoa thi 1752 ghi danh ông đứng đầu hàng Tiến sĩ cập đệ. Ông sau này giữ nhiều trọng trách như Nhập thị Bồi tụng, Hộ bộ Tả thị lang. Ông còn là tác giả các tác phẩm kinh điển như Đại Việt thông sử, Vân đài loại ngữ.

Trạng Nguyên Nguyễn Đăng Đạo (1683)

Bia khoa Quý Hợi (1683) lưu danh Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo (1651-1719). Ông là người đỗ Trạng nguyên khi 33 tuổi.

Nguyễn Đăng Đạo là danh nhân lớn, làm quan đến Thượng thư Bộ Binh. Ông từng được cử đi sứ nhà Thanh để thương lượng đòi lại đất đai, thể hiện tài năng ngoại giao xuất sắc.

Dòng Họ Nguyễn Ở Hạ Yên Quyết

Dòng họ Nguyễn ở Hạ Yên Quyết (làng Cót) có 5 vị đỗ đại khoa. Nguyễn Như Uyên (Hoàng giáp 1469) và Nguyễn Vinh Thịnh (Tiến sĩ 1659) là những người có tên được khắc trên bia. Truyền thống hiếu học của dòng họ này kéo dài gần 600 năm.

Cha Con Nguyễn Nghiễm – Nguyễn Khản (1760)

Bia khoa thi Canh Thìn (1760) có sự xuất hiện của hai cha con. Nguyễn Nghiễm (Hoàng giáp 1731, cha của Nguyễn Du) là người vâng sắc soạn văn bia. Con trai ông là Nguyễn Khản đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân trong khoa thi này.

Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475)Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Ất Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475)

Tấm Bia Cuối Cùng: Dấu Ấn Tập 82 (Khoa Thi 1779)

Khoa thi Kỷ Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 40 (1779) là khoa thi cuối cùng được dựng bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Nó đánh dấu tập 82 trong chuỗi 82 khoa thi. Tấm bia này được dựng vào năm 1780 dưới thời chúa Trịnh Sâm.

Khoa thi này lấy đỗ 15 người. Phan Huy Ôn, người cuối cùng được khắc tên trên bia Tiến sĩ, đỗ năm 26 tuổi. Ông là con Phan Huy Cận, em Phan Huy Ích.

Tấm bia cuối cùng này có kích thước lớn, cao 2m, rộng 125cm, và dày 28cm. Người soạn bài ký là Phan Trọng Phiên (Tiến sĩ 1757). Bài ký vẫn nhấn mạnh sự khuyến học và răn đe ngay cả trong giai đoạn cuối của triều đại.

Truyện Ma Miếu Hoang – Tập 82: Lời Cảnh Báo Cuối Cùng

Trong bối cảnh đất nước rối ren cuối triều Lê Trung Hưng, việc bia vẫn được dựng mang ý nghĩa tâm linh và đạo lý sâu sắc. 82 bia Tiến sĩ là nơi nguyên khí quốc gia được bảo hộ.

Tấm bia 1779 (Tập 82) được dựng ngay trước khi triều Lê sụp đổ (1789). Điều này như một lời khẩn cầu và cảnh báo từ giới nho sĩ đối với triều đình về sự suy thoái đạo đức. Lời răn dạy về sự liêm khiết trên bia là tiếng chuông vang vọng, nhắc nhở về hậu quả nếu nhân tài sa ngã.

Lời Nguyền Danh Dự

Trong tín ngưỡng, nơi ghi danh người tài, đặc biệt là những người đã khuất, có một luồng khí đặc biệt. Nếu kẻ sĩ sống gian tà, tiếng xấu bị khắc cùng tên tuổi trên bia. Đây chính là lời nguyền ám ảnh qua nhiều thế hệ. Bia đá đóng vai trò là nơi phán xét vĩnh cửu.

Chi Tiết Khác Về Giá Trị Sử Liệu Và Mỹ Thuật

Người Thợ Đá: Những Danh Tính Thầm Lặng

Dù bị phân biệt đẳng cấp, công lao của người thợ đá vẫn được ghi nhận. Chỉ có 5 người thợ đá được lưu danh trên tổng số 82 bia:

  1. Phạm Thọ Ích (Kiêu Kỵ, Gia Lâm): Khắc chữ trên bia khoa thi 1724 và 1727.
  2. Hoàng Quang Trạch (Gia Đức, Thủy Đường): Khắc chữ trên bia khoa 1733.
  3. Lê Nguyễn Diệu (An Hoạch, Đông Sơn): Khắc chữ trên bia khoa 1739 và 1743.
  4. Bá hộ Lê Khắc Thực: Lưu danh trên bia khoa 1746.
  5. Lê Văn Lộc (thợ đá thôn Nhuệ, An Hoạch, Đông Sơn): Khắc chữ trên bia khoa 1763, được ghi chính thức là “thợ đá” trong thân bia.

Họ là những người âm thầm đóng góp, đảm bảo tính mỹ thuậttính lịch sử của từng tác phẩm.

Thác bản bia tiến sĩ khoa thi năm 1763 lưu danh người thợ đá Lê Văn Lộc thôn Nhuệ xã An Hoạch huyện Đông SơnThác bản bia tiến sĩ khoa thi năm 1763 lưu danh người thợ đá Lê Văn Lộc thôn Nhuệ xã An Hoạch huyện Đông Sơn

Số Lượng Tiến Sĩ Và Sự Nghiêm Ngặt Của Khoa Cử

Bia Tiến sĩ cung cấp số liệu quý giá về các kỳ thi. Khoa thi 1475 có 3000 thí sinh dự thi. Kỷ lục cao nhất là khoa 1640 với 6000 thí sinh.

Tuy nhiên, số lượng Tiến sĩ đỗ lại rất ít. Nhiều nhất là 62 người (khoa 1478), nhưng cũng có khoa chỉ lấy đỗ 3 người (1592, 1667). Điều này chứng tỏ sự nghiêm ngặt trong việc tuyển chọn nhân tài thực.

Tính Văn Bản Học Và Thư Pháp

82 bia đá là nguồn tư liệu nguyên bản về lịch sử phát triển chữ Hán từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII tại Việt Nam. Chữ Triện thư, một thể chữ cổ, được sử dụng để khắc niên đại khoa thi trên trán bia, thể hiện giá trị thư pháp học cao.

Người soạn văn bia (như Nguyễn Đăng Cảo, Nguyễn Kiều) đều là những danh nho. Người viết chữ (như Nguyễn Tủng, Tô Ngại) đều là nghệ nhân thư pháp hàng đầu.

Vinh Danh Và Khuyến Học

Sau khi thi đỗ, tân khoa được triều đình vinh danh trọng hậu. Họ được “xướng danh treo bảng” ở cửa nhà Thái Học, được ban áo mũ, yến tiệc, và ngựa tốt để “vinh quy bái tổ.”

Văn bia khoa thi 1481 ghi lại sự kiện này: “Kẻ sĩ và dân chúng Trường An đâu đâu cũng tụ tập đến xem, đều ca ngợi thánh thượng chuộng Nho xưa nay hiếm thấy.” Sự vinh danh công khai này nhằm kích động lòng người, khuyến khích sĩ tử toàn thiên hạ hăng hái học hành.

Di Sản Tư Liệu Thế Giới Của UNESCO

Giá trị toàn cầu của 82 bia Tiến sĩ đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới (2011). Điều này khẳng định sự độc đáo và không thể thay thế của chúng.

Bia Tiến sĩ là tài liệu gốc, có lai lịch rõ ràng, được ghi chép trong chính sử. Chúng giúp nhân loại hiểu về tiến trình Nho giáo ngoài Trung Quốc.

Quan điểm “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” và lời răn dạy về sự liêm khiết trên bia vẫn còn nguyên giá trị. Nó là mục tiêu chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong công cuộc xây dựng chính phủ trong sạch.

Khu vườn bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà NộiKhu vườn bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội

Kết Luận

Truyện Ma Miếu Hoang – Tập 82 là chìa khóa để khám phá toàn bộ kho tàng lịch sử và triết lý ẩn chứa trong 82 tấm bia Tiến sĩ. Mỗi tấm bia là một chương sử sống động, ghi dấu sự thành công của 1304 vị hiền tài và truyền tải triết lý “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” xuyên suốt gần 300 năm. Từ bia đầu tiên (1442) đến tấm bia cuối cùng (1779), hệ thống di sản này không ngừng khẳng định tầm quan trọng của giáo dục, khuyến khích đạo đức, và răn dạy kẻ sĩ về trách nhiệm với dân tộc. 82 bia Tiến sĩ, là Di sản Tư liệu Thế giới của UNESCO, mãi là biểu tượng trường tồn của trí tuệ và đạo làm người của dân tộc Việt Nam, là nguồn cảm hứng cho các thế hệ học tập và phụng sự đất nước.

Mục nhập này đã được đăng trong Bí ẩn. Đánh dấu trang permalink.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *