Truyện Ma Nghiệp Báo Hài Nhi – Phần 37: Nghiệp Lực Và Hồi Ký Hoàng Liên Sơn (Yên Bái)

Truyện Ma Nghiệp Báo Hài Nhi – Phần 37: Nghiệp Lực Và Hồi Ký Hoàng Liên Sơn (Yên Bái)

Truyện Ma Nghiệp Báo Hài Nhi – Phần 37: Nghiệp Lực Và Hồi Ký Hoàng Liên Sơn (Yên Bái)

Chương thứ 37 trong series Truyện Ma Nghiệp Báo Hài Nhi – Phần 37 đi sâu vào những bi kịch lịch sử dưới góc độ nghiệp lực. Bài viết này tái hiện lại những trải nghiệm khắc nghiệt tại các trại tù cải tạo ở miền Bắc, đặc biệt là Trại Tù Hoàng Liên Sơn (Yên Bái). Đây không chỉ là hồi ức về sự khốn cùng, mà còn là hành trình tìm kiếm sự giải thoát cho linh hồn và niềm tin tín ngưỡng mãnh liệt, cung cấp cái nhìn chân thực về một giai đoạn lịch sử đầy thử thách. Những bài học về sinh tồn và trải nghiệm cá nhân trong môi trường khắc nghiệt này làm nổi bật sức mạnh tinh thần của con người miền Nam Việt Nam khi đối diện với chuỗi ngày dài gian truân.

Truyện Ma Nghiệp Báo Hài Nhi – Phần 37: Nghiệp Lực Và Hồi Ký Hoàng Liên Sơn (Yên Bái)

Khởi Đầu Của Nghiệp Lực: Biến Cố Trại Suối Máu (1976)

Trại Suối Máu, Biên Hòa, vào tháng 9 năm 1976, là nơi khởi đầu cho những chuỗi ngày cải tạo vô định. Hơn một năm trôi qua mà tương lai vẫn mù mịt, chỉ có nỗi lo miếng ăn và sự thiếu thốn ngày càng trầm trọng. Tuy nhiên, thời điểm này tuyệt đối không có chương trình lao động nặng.

Một biến cố nhỏ đã xảy ra khi các tù nhân đi lãnh gạo về. Họ bắt được một tin từ những bộ đội vừa từ miền Bắc vào. Câu hỏi “ngoài đó có nóng lắm không?” đã hé lộ khả năng di chuyển ra Bắc, nơi có gió Lào thổi qua.

Vào khoảng 10 giờ tối một ngày thu, lệnh tập trung đột ngột được ban ra. Một danh sách được đọc lên và những người đó phải lập tức thu dọn hành trang. Sáng hôm sau, họ đã biến mất khỏi Trại Suối Máu.

Gần chỗ nằm của người viết có một người am hiểu thuật bói toán. Quẻ bói cho thấy nhóm người đó được di chuyển về sân bay Tân Sơn Nhất (TSN). Từ đó, họ biến mất hoàn toàn.

Vài ngày sau, một đợt gọi nữa diễn ra, nhưng lần này chỉ gọi các quan Đại Thần. Họ cũng đi cùng hướng và biến mất tại Tân Sơn Nhất. Lúc đó, số lượng cấp Đại Tá, bao gồm cả những người đã giải ngũ, là 375 người.

Ông Hà Trọng Tín được chỉ định làm đội trưởng đầu tiên, còn ông Phạm Văn Thường là Đội Phó. Riêng Không Quân có 15 đại tá tại trại này. Sau này, khi ra Bắc, họ gặp thêm anh Báu ở Đà Nẵng (thành 16).

Năm 1982 về trại Xuân Lộc, họ gặp thêm anh Sửu (thành 17). Sau đó, anh Lê Minh Luân mất tại Yên Bái, còn lại 16 người được tha về. Tỷ lệ đại tá Không Quân ở đây khá lớn.

Số đại tá giải ngũ và các bác sĩ cấp đại tá không được gọi ra Bắc. Họ được giữ lại miền Nam hoặc cho về nhà sớm hơn vì tuổi đã cao.

Truyện Ma Nghiệp Báo Hài Nhi – Phần 37: Nghiệp Lực Và Hồi Ký Hoàng Liên Sơn (Yên Bái)

Hành Trình Chuyển Giao Đến Yên Bái: Vượt Qua Ranh Giới

Người viết bài này nằm trong đợt chuyển trại cuối cùng. Họ được chở đến TSN bằng xe Molotova, qua Biên Hòa, Thủ Đức, Cầu Bình Lợi, rồi rẽ vào khu Hàng Không Dân Sự.

Xe chạy theo đường bay Bắc Nam cũ, dừng lại tại các ụ chứa máy bay ở phía Bắc phi trường. Họ bị tập trung vào một ụ lớn, lính canh cầm AK-47 đứng trên bờ chỉ xuống.

Khi trời gần sáng, tù nhân được xếp lên từng chiếc C-130. Một tay của họ bị còng vào tay của người khác, buộc phải đi chung ngay cả khi đi tiêu tiểu.

Lúc đầu, máy bay bay về hướng mặt trời mọc, tạo hy vọng cho nhiều người. Nhưng sau đó, mặt trời đổi hướng sang bên phải, và cứ thế mà bay, khiến tinh thần mọi người chùng xuống.

Sau khoảng 4 giờ bay căng thẳng, máy bay đáp xuống phi trường Yên Bái. Xung quanh là cảnh rừng núi chập chùng, trùng điệp.

Những người chăm sóc phi đạo dùng vải ngụy trang để che phủ phi đạo ngay sau khi máy bay đáp. Một số tướng lãnh VC tiến lại gần và nói: “Đây là Bắc Bó, quê hương của Cách Mạng”.

Họ tiếp tục được đưa lên xe Molotova để chở về trại. Trên đường đi, người viết quan sát thấy các hangar chứa Mig-19 và Mig-21 được cất bằng tre. Chúng dựa sát vào tường núi, rất khó nhận ra từ trên không.

Tuy nhiên, nếu dùng dò tìm infra-red thì rất dễ phát hiện, do có đường di chuyển bằng concrete đi từ chỗ chứa máy bay ra phi đạo. Hồi ở Biên Hòa, họ từng thấy F-5 và Mig-21 bay tập cùng nhau. Ra Yên Bái, chỉ thấy chủ yếu Mig-21, thỉnh thoảng có Mig-17 hay Mig-19.

Hoàng Liên Sơn: Nơi Khởi Phát Khổ Hạnh Và Thử Thách Niềm Tin

Khi xe đến thị xã Yên Bái, họ phải chờ qua phà. Cảnh tượng này làm gợi nhớ đến phà Chợ Gạo năm 1957. Phà hoạt động nhờ sức kéo của người, truyền qua dây cable to giăng ngang sông.

Sau khi qua phà, xe Molotova tiếp tục đi trên những con đường đất đỏ, gồ ghề và không được lót lát. Họ được chở đến Liên Trại 1 và tập trung lại ở Trại 2, nơi có nhà lợp ngói đỏ nổi bật.

Xung quanh đó, gần như không thấy bóng dáng một ngôi nhà lợp ngói nào khác, trừ một nhà nhỏ sau này được biết là trường tiểu học của xã. Các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), bao gồm hai tướng Không Quân, được ở một nhà tre khu gần đó.

Trại nhà ngói quá hẹp so với số lượng tù nhân vừa được chuyển ra. Có lẽ phía quản lý đã nghĩ số lượng đại tá không nhiều đến vậy. Do đó, tù nhân phải nằm một phần trong nhà, một phần ở hành lang.

Một phần khác phải nằm dưới mái tre gần khu bếp. Nền nhà mới đắp còn ướt, buộc họ phải lót tấm nylon để tránh bị thấp. Khu vực này không có cửa nẻo gì cả, hoàn toàn mở.

Trong đêm tối hay sáng trăng, tù nhân phải di chuyển dưới sự canh gác của bộ đội. Khi đi ra, họ phải hô to: “Báo cáo bộ đội, tôi đi ra.” Sau khi tiểu tiện xong, họ phải báo cáo: “Báo cáo bộ đội tôi đi vào.”

Tất nhiên, có những người đã hô to: “Báo cáo bộ đội, tôi đi ỉa.” Người viết tự hỏi liệu đây có phải là cách để họ luôn cảm thấy bị theo dõi. Thử nghiệm không báo cáo đã khiến anh bị một người lính chặn lại, chĩa súng vào và yêu cầu rút kinh nghiệm lần sau.

Trại ở Yên Bái được Bộ Đội quản lý trực tiếp. Vài ngày sau, họ gặp một số người mặc đồ tù sọc, loại vải Trung Quốc dệt, giống như tù binh Mỹ trước đây.

Loại vải này ấm và bền hơn vải do Nam Định dệt mà họ sẽ được cấp sau này. Tạm thời, họ phải dùng quần áo lính cũ lấy từ trại đầu tiên là Trung Tâm Huấn Luyện Địa Phương Quân Sư Đoàn 18.

Tại Yên Bái, họ phải trải qua ba trại khác nhau: Trại nhà ngói ban đầu, sau đó là Trại 2 trong cốc, và cuối cùng là Trại 3 sâu hơn nữa trong núi.

Vòng Luân Hồi Nghiệp Báo: Cảm Giác Về Hoàng Liên Sơn

Cảm giác đầu tiên khi ở trong vùng núi Hoàng Liên Sơn là sự to lớn, trùng trùng điệp điệp của thiên nhiên. Con người cảm thấy nhỏ bé, không thấy chân trời là đâu cả.

Con người Hoàng Liên Sơn có nét khác lạ. Họ có cái nhìn tò mò, xen lẫn nhút nhát, đôi khi lại có vẻ thù hận.

Ngay cả tù nhân với nhau cũng ít nói ít cười, ai nấy đều sống với suy nghĩ riêng. Cái buồn thấm thía nhất là nỗi lo không còn được gặp lại gia đình, cha mẹ, vợ con. Nhiều người đã nghĩ rằng họ sẽ bỏ xác nơi đây.

Một vài dấu tích sinh hoạt của tù binh Mỹ trước kia còn sót lại, như cây gậy đánh base ball. Bộ đội thường nói với họ rằng Mỹ khỏe như trâu nhưng ăn cũng dữ lắm. Tuy nhiên, tù binh Mỹ còn có luật tù binh và hiệp định để được tự do.

Với những người lính VNCH, họ chỉ biết “mút mùa” hay “mọt gông”. Sau này, vợ con họ kể lại rằng, ban đầu kế hoạch là nhốt họ cho đến ngày tàn.

Mỗi người sống nội tâm, ít chia sẻ. Người viết đặc biệt tò mò về nhóm của anh Báu, những người đã ra đây trước.

Đó là những biệt kích ra Bắc bị bắt, những người bị bắt trong trận Lam Sơn 719, hay khi mất Đà Nẵng. Có người được cho nói chuyện, nhưng cũng có người bị giữ bí mật tuyệt đối.

Ví dụ như anh Nguyễn Văn Thọ, cựu Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn Nhảy Dù tham dự Lam Sơn 719. Lúc đầu, họ bảo đã thả anh Thọ, nhưng vài tháng sau, anh em lại gặp anh khi đi lao động.

Anh Thọ bị giấu suốt thời gian ở Yên Bái. Mãi đến khi tù nhân được di chuyển xuống đồng bằng, giao cho Công An quản lý, anh Thọ mới cùng họ xuống Nam Hà.

Cơ Cấu Tổ Chức Và Phân Chia Lao Động Tại Trại

Tù nhân được “biên chế” thành đội. Sự phân chia công việc phản ánh mục đích của cải tạo và thái độ của cấp trên đối với từng thành phần.

Có những người chỉ được làm vệ sinh láng trại và tuyệt đối không được xuất trại. Đây là thành phần được “chăm sóc đặc biệt” để tránh thất thoát, như cấp Tướng, hay người trong ngành tình báo, an ninh.

Một số người làm công việc nhẹ hơn vì tuổi già và bệnh tật. Họ có thể đã có Mẫu số 8 (giấy giải ngũ) nhưng nán lại trong quân đội để hưởng lương. Những người này làm việc trong láng như đan lát, bện dây thừng.

Những người khỏe hơn một chút, dù vẫn bị coi là thiếu sức khỏe để lao động nặng, thì vào các đội trồng rau, nuôi lợn.

Còn lại là đội lao động nặng, thành phần được dự trù sẽ phải sống mãi trong tù. Đây là những người bị coi là còn sức lực và có thể làm bậy, lãnh đạo chống đối chánh quyền trong tương lai.

Công việc của họ là đi rừng lấy củi nấu nướng, lấy gỗ xây cất nhà cửa, làm cột đèn cho xã hoặc Liên Trại. Họ cũng làm ruộng, phát nương, thu hoạch gỗ để làm giấy.

Họ phải được giao việc thật nặng để không còn sức trốn trại, sớm trở thành như các cụ già nằm trong láng.

Giữa việc trồng rau và đi rừng, đi rừng giống như bay trực thăng hay khu trục, không biết chết ngày nào, nhưng có cái sướng là được vận động. Trồng rau nhàn hạ hơn, nhưng phải chịu cảnh hôi thối.

Chỉ có phân tươi 100% mới đảm bảo chỉ tiêu 50kg phân mỗi người một tháng. Mọi người tranh giành nhau lấy nước tiểu, lấy phân. Có người còn ngồi chờ cho phân rớt ngay xuống xẻng của mình.

Những người có kinh nghiệm trồng rau này sau này về nhà, nếu phải sống ở vùng kinh tế mới, sẽ có kinh nghiệm giúp cuộc sống dễ dàng hơn. Mục tiêu của cải tạo là giúp họ sống tự lực cánh sinh khi được tha.

Nghiệp Khổ Của Lao Động Nặng: Đối Mặt Với Rừng Sâu

Người viết được biên chế vào đội lao động nặng, cùng với các anh hùng tứ xứ: cựu Trung Đoàn Trưởng, Chỉ Huy Trưởng, Phó các Biệt Khu, các Tỉnh Trưởng.

Khu rừng mà họ thường vào khai thác chỉ cách trại từ 3 đến 5 km, nhưng phải qua một ngọn đồi khá dốc.

Công việc chính là đốn “chổm”, một loại tre có đường kính khoảng 5 cm, dài độ 4,50m. Chổm được dùng làm mái thay ngói, làm vách tô bùn, làm ruôi lợp nhà, và đan rổ rá.

Lúc đầu, đi vào một khu vực có tới 5 đội, phải giành nhau đốn cho kịp. Ai chậm chạp phải đi tìm xa hơn. Chỉ tiêu mỗi ngày là hai bó chổm, mỗi bó 10 cây.

Sau này, người viết và một bạn tù khác được chỉ định kết tất cả các bó chổm thành một cái bè. Họ chống bè về đến đập nước, nơi các toán khác từ trại ra vác về.

Chính trong lúc đốn chổm này, anh Quế đã trốn trại và bị dân bắt lại 6 ngày sau đó.

Mỗi ngày về trại quá mệt mỏi, họ chỉ muốn tắm giặt, ăn xong rồi ngủ. Chủ nhật mới có thì giờ nói chuyện với các đội khác, như đội làm rau, làm ruộng.

Một hôm, có người nói: “Tôi biết ‘bò thất’ ở đâu rồi.” “Bò thất” là các ông tướng. Tù nhân lấy bài domino để chỉ lon lá. Thiếu Úy là ‘bò nhất’, còn ‘bò thất’ là ngoại lệ. Họ tự gọi nhau là ‘bò lục’.

Dân thì gọi họ là ‘ngụy’. Tù nhân gọi VC là ‘cối’ hay là ‘chèo’.

Cối không thích tù nhân nói chuyện với nhau. Họ làm kế hoạch hành quân khá tốt, không bao giờ để hai trại có dịp thông tin cho nhau trong lúc lao động, nhằm tránh việc kết hợp nhau trốn trại hay làm loạn.

Một câu chuyện nực cười được kể lại từ đội làm ruộng. Anh dắt trâu của hợp tác xã xuống ruộng cày. Đang cày dở một luống, kẻng nghỉ giải lao vang lên. Con trâu tức khắc leo lên bờ để ăn cỏ.

Anh kéo xuống, nhưng con trâu nhất định không xuống. Con trâu cũng biết tranh thủ quyền lợi, trong khi tác phong làm việc của tù nhân là làm hết việc chứ không làm hết giờ, điều được coi là cần sửa đổi trong xã hội Xã hội Chủ nghĩa (XHCN).

Những Công Tác Nguy Hiểm: Đắp Đập Nước Và Trồng Trọt

Vài tháng sau, tù nhân dời vào cốc, một trại cất toàn bằng chổm. Trong khu vực này, bị tre cắt đứt tay chân là chuyện thường, nhưng tuyệt đối không thấy một cây đinh nào.

Vào trại này, đội lao động nặng tham gia một công trình lớn là đắp một đập nước, dài khoảng 30 m, rộng khoảng 10 m. Mục đích là nuôi cá trám cỏ, một giống cá ăn không ngon lắm nhưng chỉ nuôi bằng rau cỏ.

Công trình xây đập tuy gian khổ, nhọc nhằn nhưng không mấy nguy hiểm. Trái lại, việc vét ao nước đọng lâu ngày là một việc làm quá nguy hiểm.

Phân nửa những người tham gia đều phải vào nhà thương vì bị sốt xuất huyết. Trong số đó có Võ Quế và Lê Minh Luân.

Võ Quế may mắn khỏi bệnh, còn anh Luân bị chết vì trúng lạnh, sưng phổi sau khi vừa hồi phục bệnh sốt xuất huyết.

Trước khi chết, anh Luân bảo: “Phải chi được một tách cà phê thì sướng quá.” Tại trại bệnh mà anh Luân chết, Không Quân cũng có Trưởng Phòng Thăng Thưởng và Huy Chương cũ, là Trung Tá (hồi hưu) Nguyễn Phước Kiêm.

Nửa năm sau, trại lại tách làm đôi, và tù nhân theo các bạn vào Trại 3 trong cốc, sâu hơn vào trong núi. Công việc bình thường vẫn là đốn cây chổm, trồng khoai lang, khoai sắn (khoai mì).

Tuy nhiên, có hai công tác làm người viết nhớ mãi: “Phát Nương” để trồng bắp, và thu hoạch cây bồ đề để làm giấy.

Thử Thách Phát Nương Và Bài Học Sinh Tồn Khắc Nghiệt

Phát nương làm rẫy là việc người miền núi thường làm. Nhưng quy mô ở đây là công việc của 150 người.

Dao phát là một loại dao đặc biệt, giống như cây Thanh Long Đao của Quan Vân Trường. Họ tiến lên dốc, chặt gốc cây bằng cùm chân trở xuống, còn lại phải xử lý bằng riều.

Một anh bạn khác dùng tay trái, người viết dùng riều bằng tay phải. Họ đốn những cây to có khi lên tới hai ôm.

Nguy hiểm nhất là khi gặp loại cây xoắn vào nhau khi mọc lên. Muốn đốn cây to bên trong thì phải đốn cây quấn bên ngoài trước.

Khi đốn, họ cùng chặt một lượt. Nhưng khi gần đứt gốc, họ ngồi nghỉ để nghĩ kế, vì cây sẽ tuông ra bên người nào thì người kia phải dứt một mình.

Đúng là phần người viết phải dứt. Anh bạn ra ngồi cách gốc cây khoảng 5 mét, lấy thuốc ra hút.

Người viết dọn dẹp kỹ lưỡng xung quanh gốc cây rồi cầm riều vào dứt cho đứt gốc. Khi vừa đứt, cây bung ra ngoài thật mạnh, cách gốc cây mẹ chừng 2 mét, rồi bắt đầu tuông như lò xo.

Cây quay hơn một vòng, xong còn trả ngược lại, giống như tìm cách trả thù. Người viết may mắn thoát được nhờ đã chuẩn bị chỗ trước để phóng ra ngoài nằm sát mặt đất mới tránh khỏi.

Hai người hú hồn hú vía, dù đã đoán trước nó sẽ làm như vậy nhưng không ngờ nó nhanh quá. Một gốc cây có đường kính khoảng 2 tấc mà tán vào đầu thì chỉ có nước chầu Trời.

Dọn nương xong, họ chờ cây khô thì đốt rồi lại dọn gốc cây nhỏ cho sát mặt đất. Sau đó, họ gieo hạt bắp.

Đến khi thu hoạch, sản lượng dường như không bằng phần bắp giống đã mua, vì khỉ và két ăn hết. Thú rừng ở đây sống theo dân. Dân sống chỗ nào thì có cây ăn trái, có bắp, có khoai, sắn, có cao lương.

Ngược lại, đi sâu vào hướng Tây và hướng Bắc thì rừng già không có gì ăn được.

Công Tác Thu Hoạch Gỗ Bồ Đề Và Nỗi Sợ Hãi Của Gió Giật

Ở trại này, họ còn đi khai thác gỗ bồ đề để làm giấy. Công tác này giao cho hai trại 2 và 3, toàn ‘bò lục’.

Họ chia làm ba bộ phận. Một bộ phận lo đốn cây và đoản ra từng khúc 4 mét, bề kính nhỏ nhất là 2 tấc.

Một bộ phận di chuyển gỗ ra dàn phóng từ trên đồi xuống đường cái. Bộ phận thứ ba, chừng 4 người, ở dưới đường cái để coi chừng người qua lại và dẹp các khúc gỗ xếp theo loại lớn nhỏ.

Công tác đốn gỗ có nguy hiểm riêng. Khi có cây “chóng chày”, họ phải ngưng không đốn mà chờ chuyên viên lâm nghiệp đến giúp đỡ.

Chóng chày là khi chặt gốc cho một cây ngã, cây đó lại không ngã hẳn xuống đất mà ngọn của nó vướng vào một cây gần đó rồi chống lại. Khi đốn cây chóng (đứng thẳng) thì cây chày (nằm nghiêng) rớt xuống từ trên cao, không biết rớt vào đâu mà chạy.

Đốn cây trên đồi cao, điều ngại nhất là gió giật. Họ phải xem chiều gió để định hướng cho cây đổ. Nếu gió Bắc thì cho cây đổ về Nam, mở miệng phía Nam và chặt gáy phía Bắc.

Họ định là như vậy, còn Trời định là cái khác. Có lần người viết thấy mà phát sợ.

Một nhóm đốn một cây bồ đề bỏ hoang trên đỉnh đồi. Cây to cỡ hai ôm. Khi mở miệng được chừng phân nửa thân cây thì có một luồng gió mạnh giật ngược ngọn cây lại.

Ngọn cây bật ngược về hướng đối nghịch với hướng đã dự trù cho ngã, làm thân cây xé ra từ chỗ mở miệng. Phần gốc phóng nhanh về hướng mở miệng khoảng 10 mét và bắn lên cao.

Nó đập mạnh xuống đất làm thân cây vỡ ra thành hai mảnh nữa. Chiếc nón cối mà anh đội trưởng dùng đã bị nát nghiến từng mảnh nhỏ.

Chặt ra làm tư, đoản ra từng 2 mét, mỗi khúc phải 4 người khiêng. Khiêng gỗ cũng có cái nguy hiểm của nó.

Có lần hai anh khiêng, một người một đầu. Bỗng đàng trước làm rớt cây khỏi vai mà đàng sau không hay kịp để vứt gỗ, nên đầu cây đánh vào sọ một cái.

Anh ấy bị té bất tỉnh, nằm nhà thương nhiều ngày, và dường như thị lực cũng giảm nhiều. Gian lao là thế.

Tối chỉ chờ giờ ngủ để lấy sức ngày mai đi làm.

Cuộc Chiến Sinh Tồn Và Những Lời Khuyên Quý Giá

Về chế độ ăn, họ có tiêu chuẩn 6 lạng chất bột mỗi ngày. Quy ra thành bốn khúc khoai mì buổi sáng, sáu khúc buổi trưa và sáu khúc buổi chiều. Kèm theo là rau muống luộc và nước muối.

Lúc nào họ cũng thấy đói. Lúc đó, đã bắt đầu cho phép gia đình mỗi tháng được gửi ra một gói quà không quá 5 kg.

Khi thiếu chất đạm (protein), họ lại thèm đường. Tuy nhiên, thà thiếu ăn, người viết không để thiếu hút thuốc.

Có khi anh lấy nửa phần ăn sáng đổi lấy nửa gói thuốc lá, hoặc nửa phần thuốc lào. Có tháng được 8 gói thuốc, và tháng đó phải nhịn đường luôn.

Có người đi mua đường về bị “say đường” khi người bán đường cho họ vét hũ. Đường còn có công dụng chữa một thứ bệnh là bệnh say sắn (khoai mì).

Trong chất của khoai mì có độc khi ăn chưa quen, nhất là khi luộc đọt sắn để ăn cho đỡ đói. Chỉ có đường mới trị bệnh say sắn, tuyệt đối không được dùng aspirine.

Các cán bộ thường nói: “Các anh chưa rèn luyện bao tử. Khi chúng tôi di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam, đi liên tục mà mỗi ngày chỉ có một vắt cơm mà thôi.”

Vất vả ban ngày, tối lại nghe lên lớp, nhất là khi cán bộ quản giáo vừa được Đảng “mở mắt” cho. Nghĩa là anh ta vừa được học cái gì mới, về khoe lại với tù nhân là mình biết.

Lớp Học Tư Tưởng Và Sự Khác Biệt Trong Nhận Thức

Khi có kẻng 9 giờ đêm, tù nhân xếp hàng điểm danh trước khi đi ngủ, tập họp ngoài sân nếu trời không mưa.

Có hôm, anh cán bộ lên lớp: “Các anh phải biết quý trọng tài sản của nhân dân. Như đốn cây làm giấy, không được phí phạm, đừng đốn xa gốc quá.”

Anh ta tiếp tục với một câu chuyện huyền thoại: “Các anh có biết không, nước ta có một rừng cây rất quý. Liên Xô chỉ có mấy cây loại này, nó trong suốt như pha lê, lại có lõi đỏ như một chỉ hồng xuyên suốt.”

“Liên Xô định đổi với ta rừng cây đó. Nếu được, họ sẽ mang trực thăng lại bứng cả rễ. Họ đổi cây đó và cho Đông Dương một Trạm Thủy Điện ở thác Khon, có thể cấp điện cho ba nước Việt Miên Lào.”

Khi tan hàng, anh em cười khúc khích rồi đi ngủ. Hôm sau, cán bộ gặp người dò hỏi nhỏ: “Tại sao các anh cười?”

Câu trả lời là: “Họ cho rằng cán bộ nói láo hay quá.” Cán bộ phản ứng: “Nói láo sao được, sách của Đảng ghi rõ như vậy, không lẽ sách Đảng viết sai sao?”

Nghiệp Chướng Từ Thiên Nhiên: Mối Đe Dọa Từ Vùng Núi Lạnh

Tù nhân ở Yên Bái gần hai năm dưới sự quản lý của Bộ Đội và dân tộc Dao. Sau đó, họ về Hà Tây và Nam Hà để bắt đầu chịu sự quản lý tinh vi hơn của Công An.

Vùng Yên Bái có cái độc mà tù nhân phải đương đầu là chính mình. Đừng vì quá đói mà ăn bậy.

Có anh lấy lá sâm trong rừng về vò ra, để đông đặc mà ăn. Một tuần sau, anh bị lạnh run cả tháng trời không dứt. Cơ thể phải tự giải quyết vì không có chữa trị gì cả.

Có lần, có lệnh tập trung thuốc trụ sinh lại. Người viết dấu thuốc dưới sạp tre. Khi cần dùng đến, chỉ còn lại phần màu trắng ở trong. Phần vỏ bọc bên ngoài đã bị kiến ăn hết vì nó ngọt.

Khi người viết bị cúm đường ruột, mỗi ngày đi tiêu 20 lần. Thuốc Kiết, thuốc sulfamide của anh Tiên cho uống hết mà bệnh vẫn còn.

Cuối cùng, người viết liều mạng, lấy mấy viên tétracycline bọc đường bị kiến ăn ra uống thì dứt ngay. Chỉ vài ngày sau, anh lên đường đi xuống núi.

Kẻ thù độc nhất hàng ngày khi đi rừng là con vắt. Nó nhỏ hơn con đỉa, hút máu người và thú đi ngang qua. Nó bắn vào người, rồi chui vào chỗ kín. Khi về nhà cởi quần ra mới thấy nó đã no máu và rớt xuống đất.

Anh em trêu nhau nói bạn mình đang có kinh kỳ. Những vết cắn của con vắt thường để lại một vết sẹo lâu lành, cứ ngứa và gãi vào là tuôn máu ra.

Dường như khi con vắt hay đỉa hút máu, chúng có một chất gì đó làm cho máu loãng ra. Đã nghèo lại mắc cái eo.

Họ không biết mình đã gầy đến đâu. Nhưng có hôm, người viết đứng trên đồi nhìn các bạn tắm dưới giếng. Anh thấy mọi người chỉ còn bộ xương khô. Anh tự nhủ, chắc mình cũng thế thôi.

Qua Truyện ma Nghiệp Báo Hài Nhi – phần 37, độc giả không chỉ đọc một hồi ký lịch sử đầy gian khổ tại Hoàng Liên Sơn mà còn chiêm nghiệm về ý nghĩa sâu sắc của nghiệp lực và sự kiên cường. Những thử thách về tinh thần và thể xác trong trại tù cải tạo đã định hình lại cái nhìn về sinh tồn và đức tin. Cuộc chiến không chỉ chống lại hoàn cảnh mà còn là cuộc chiến với chính mình, dạy chúng ta bài học vĩnh cửu về giá trị của tự do và sự sống.

Mục nhập này đã được đăng trong Bí ẩn. Đánh dấu trang permalink.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *