14/03/2022 08:52 View: 2724

Bí ẩn những lời Sấm truyền của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm

Những lời sấm của nhà tiên tri số 1 Việt Nam - Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vẫn quay trở về với ý nghĩa sâu xa như ngay trong lời cảm đề ông đã viết: “Bí truyền cho con cháu - Dành hậu thế xem chơi”!

 

Biển Đông vạn dặm dang tay giữ,

Đất Việt muôn năm vững trị bình.

Chí những phù nguy xin gắng sức,

Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là người tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri số 1” của Việt Nam. Người Trung Hoa thì coi ông là “An Nam lý số hữu Trình tuyền”. Thuở nhỏ, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất thông minh, học đâu nhớ đó, lớn lên được theo học quan Bảng Nhãn Thượng thư Lương Đắc Bằng.

Tương truyền rằng trong một lần đi sứ, quan Thượng thư mang về bộ sách Thái Ất thần kinh, nhưng đọc cũng không hiểu hết. Thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm đặc biệt thông minh hơn người, quan Thượng thư bèn trao lại cuốn sách quý ấy cho học trò.

Truyền thuyết nói rằng nhờ hiểu được cuốn sách ấy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết ra được những lời tiên tri cho hàng trăm năm sau. Những lời tiên tri cho hậu thế ấy chính là trong tập Sấm Ký Nguyễn Bỉnh Khiêm mà dân gian quen gọi là Sấm Trạng Trình.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tiên tri thứ hai, xuất hiện đúng 500 năm sau nhà tiên tri đầu tiên là Thiền sư Vạn Hạnh (938-1025) với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý. Vô số giai thoại được dân gian truyền nhau về những lời tiên đoán của Trạng Trình trước khi sự việc xảy ra.

Có giai thoại kể rằng: Tổng đốc Hải Dương có lần về thăm quê Trạng Trình. Trong lúc đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có nguy cơ sụp lở, quan xem xét cẩn thận mới biết là mộ của thân phụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Vị quan Tổng đốc hết sức ngạc nhiên bởi Trạng Trình là thầy lý số hàng số 1 mà sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này, ông bèn bàn bạc với con cháu Trạng Trình và quyết định di dời lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm ý muốn sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Nào ngờ khi đào đến gần hộp quách, phát hiện thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ: “Bát thập niên tiền khi chung vũ tả/Bát thập niên hậu khí nhập ư trung”, nghĩa là: Tám mươi năm trước khí tốt bên trái/Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong!

Trong Sấm Ký, Trạng ghi rõ về những biến thiên trong lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng cho đến hôm nay. Và cả cái thời khắc “trở lại” của ông cũng được ghi rõ trong những lời sấm truyền, Trạng viết rằng tên tuổi của ông chỉ “sống lại” với hậu thế sau đúng 500 năm. Hậu vận này được chính ông viết trong lời sấm:

“Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi

Sông Hàn nối lại thì tôi lại về”.

Lời sấm này có nghĩa là bao giờ vùng đất Tiên Lãng bị xẻ làm đôi ra và con sông Hàn được nối lại thì tên tuổi của Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ vang dội trở lại. Quả đúng như lời sấm, vào năm 1991 Tiên Lãng bị xẻ đôi ra vì có công trình đào con sông để làm kênh thuỷ lợi.

Thời điểm ấy cũng vào đúng 500 năm sau thời đại của ông. Cùng lúc ấy thì có cây cầu được xây dựng nối sông Hàn từ quê Vĩnh Bảo của cụ sang Thái Bình. Cũng từ năm ấy trở đi, tên tuổi, danh tiếng, tài năng kiệt xuất của cụ được sống lại, lễ kỷ niệm 500 năm ngày sinh của cụ được Nhà nước tổ chức lọng trọng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

“Sấm” cho nhà Mạc, nhà Nguyễn, nhà Trịnh

Ngay từ lúc sinh thời, ông đã dùng tài lý số của mình “cứu vãn” cho triều nhà Mạc tồn tại được một thời gian khá dài. Dưới thời nhà Mạc, năm 45 tuổi ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Vua Mạc Đăng Doanh cất ông lên làm Tả thị lang Đông các học sĩ. Nhưng sau khi dâng sớ hạch tội 18 lộng thần không được vua nghe, ông đã cáo quan về ở ẩn.

Thời ấy, đất nước đang trong giai đoạn hỗn loạn, có tới ba triều đại cùng tồn tại là nhà Mạc, nhà Nguyễn, nhà Trịnh. Lúc nhà Mạc sắp mất liền sai người đến hỏi ông. Ông đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc rằng: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”. Nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì sẽ tồn tại được 3 đời. Qủa nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng thì tồn tại được thêm 3 đời.

“An Nam lý số hữu Trình tuyền” Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đưa ra lời sấm cho nhà Nguyễn, mà nhờ đó nhà Nguyễn mới tiến vào Nam mở rộng bờ cõi để đất nước ta có hình thái như ngày hôm nay. Ấy là năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, bèn sai người đến hỏi Trạng, khi ấy đã 77 tuổi đang ở ẩn tại am Bạch Vân.

 

Trạng Trình không nói không rằng, cầm tay sứ giả dắt ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và bảo: “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”, nghĩa là một dải Hoành sơn có thể dung thân được. Hiểu được ngầm ý ấy, Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị xin với anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, nhờ đó mà dựng nên nhà Nguyễn ở phương Nam.

Sau này, nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Trạng thành: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi nhưng quả đúng như lời sấm ban đầu của Trạng, nhà Nguyễn chỉ có thể dung thân ở dải Hoành sơn chứ không thể tồn tại mãi mãi, nên triều đại nhà Nguyễn đã chấm dứt vào năm 1945.

    Còn với triều đại thứ 3 cùng tồn tại khi ấy là nhà Trịnh, thì thời điểm vua Lê Trung Tông mất không có người nối dõi, Trịnh Kiểm định soán ngôi nhà Lê nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông cũng không nói năng gì mà dẫn sứ giả ra chùa thắp hương bảo: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm giống cũ mà gieo”. Rồi Trạng lại sai chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản”, ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn.

Trịnh Kiểm nghe theo liền sai người đi tìm tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, hai bên cùng tồn tại tới hơn 200 năm. Vì thế mà có câu: Lê tồn, Trịnh tại.

Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng điều Nguyễn Công Trứ đi khai hoang ở Hải Dương. Nguyễn Công Trứ xem xét địa thế, thấy cần phải phá đền thờ trạng Trình để đào sông.

Sau khi người dân đào bát hương lên, ông thấy dưới bát hương có tấm bia đá phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ sai người lau sạch bia thì đọc được mấy câu:

Minh Mạng thập tứ

Thằng Trứ phá đền

Phá đền phải làm đền

Nào ai động đến doanh điền nhà bay.

Ông liền thảo sứ về triều, xin bãi bỏ lệnh phá đền, đồng thời sửa sang lại ngôi đền của vị trạng nguyên nhà Mạc.

Đã từ lâu, ở nhiều địa phương trên cả nước, nhất là vùng Nghệ Tĩnh, người ta đã lưu truyền những câu sấm của Trạng Trình như sau:

“Đụn Sơn phân giải

Bò Đái thất thanh

Thủy đáo Lam thành

Nam Đàn sinh thánh”.

Tạm dịch nghĩa là: “Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân”.

Nhà sử học Ngô Đăng Lợi (Hải Phòng), người chuyên nghiên cứu về Sấm Trạng cho biết, sau khi thực dân Pháp đàn áp tàn khốc phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, câu sấm này lại được bàn tán trao đổi rộng với niềm khát khao mong chờ vị thánh nhân xuất thế.

Lúc đó, khe Bò Đái cũng đã ngừng chảy, tiếng suối chảy ở khe không còn nghe được nữa, do đó người dân càng tin và càng chờ đợi.

Trong một cuộc gặp giữa cụ Phan Bội Châu, học giả Đào Duy Anh, và nhà nho Trần Lê Hữu, nội dung cuộc đối thoại chỉ xoay quanh tình thế nước nhà và tương lai sẽ ra sao, Trần Lê Hữu có hỏi: “Thưa cụ Phan, “Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh” chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!”. Phan Bội Châu đáp: “Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ra thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác”.

Vận thế đất nước hưng thịnh trong lời sấm quả nhiên được ứng vào đúng 500 năm sau ngày mất của Trạng: “Hồng lam ngũ bách nghinh thiên hạ/Hưng tổ diên trường ức vạn xuân”. Có nghĩa là đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm sẽ đến những mùa xuân hưng thịnh vĩnh viễn.

Và thực tế cho thấy, câu sấm này đã ứng nghiệm từ năm 1991, tức là đúng sau 500 năm, đất nước ta đã thực sự khai mở. Trước đó, đất nước ta đã có cuộc đổi mới tư duy từ năm 1986 nhưng đến năm 1991 mới thực sự chuyển biến mạnh.

Ngay cả sự kiện trọng đại Cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng được Trạng “nhìn” thấy từ hàng trăm năm trước: “Cửu cửu càn khôn dĩ định/Thanh minh thời tiết hoa tàn/Trực đáo dương đầu mã vĩ/Hồ binh bát vạn nhập Tràng An”.

Lời sấm này có nghĩa là đất nước ta phải qua 81 năm mới thoát khỏi ách nô lệ, sau đó phải qua 9 năm nữa mới được yên, thể hiện bằng câu “Thanh minh thời tiết hoa tàn”.

Đó chính là trận Điện Biên Phủ lẫy lừng ngày 13/2/1954 đúng vào tiết thanh minh. “Thời tiết hoa tàn” tức là ở thời điểm thanh minh đó có một sự tàn lụi, thì chính là sự tàn lụi của ách cai trị của thực dân Pháp. “Trực đáo dương đầu mã vĩ” tức là cuối năm Ngọ, đầu năm Mùi thì mới có sự thành công.

Đó chính là sau chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 3/1954, đến 10/10/1954 mới giải phóng Thủ đô và ngày 1/1/1955 Chính phủ mới về tiếp quản Thủ đô. Lời sấm “Hồ binh bát vạn nhập Tràng An” nghĩa là có lính tám Sư đoàn của vị lãnh tụ tài ba tiến vào Tràng An.

 

Một loạt các mốc lịch sử khác cũng được Trạng tiên đoán từ 500 năm trước. Tất cả các sự kiện đó đều ứng vào câu sấm:

“Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh/Can qua xứ xứ khổ đao binh/Mã đề dương cước anh hùng trận/Thân dậu niên lai kiến thái bình”.

Câu này dịch nôm na nghĩa là cuối năm Thìn đầu năm Tỵ sẽ khởi đầu có chiến tranh, ứng vào sự kiện từ cuối năm 1976 (Thìn), đầu năm 1977 (Tỵ) cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam nước ta đã rục rịch xuất hiện; tình hình biên giới với Campuchia căng thẳng. Sau đó, là chiến tranh.

Rồi đến câu “Mã đề dương cước anh hùng trận”, nghĩa là Trạng Trình tiên đoán nạn can qua phải trải qua cả năm Ngọ nữa. Quả nhiên là đúng hết năm Ngọ, đầu năm Mùi ta mới diệt được quân diệt chủng Pôn pốt, Campuchia được giải phóng. “Thân dậu niên lai kiến thái bình”, tức là chiến tranh còn xảy ra cho đến khi qua năm Thân tới năm Dậu mới có thái bình được.

Lời sấm còn ứng đúng với hai cục diện trên thế giới. Cục diện thứ nhất là cuộc Đại chiến thế giới lần thứ II. Đại chiến thế giới khởi đầu từ khi phát xít Đức tấn công Ba Lan, từ năm 1940 đã bắt đầu rục rịch (cuối năm Thìn - Long vĩ) khởi đầu chiến tranh, đến năm 1941 (đầu năm Tỵ - Xà đầu) Hitler tấn công Liên Xô.

Qua cuối năm 1942, giữa năm 1943 (Mã đề dương cước) thì đến năm 1944 - 1945 (Thân Dậu niên lai kiến thái bình) mới qua khỏi nạn chiến tranh. Cục diện thứ hai là cuộc chiến tranh Iraq cũng xảy ra vào cuối năm Thìn (2000), đầu năm Tỵ (2001) rồi kéo dài đến hết năm Thân - Dậu mới ổn.

Lời tiên tri về chủ quyền biển đảo qua bài thơ Cự Ngao Đới Sơn.

Con rùa lớn đội núi

Núi tiên biển biếc nước trong xanh,

Rùa lớn đội lên non nước thành.

Đầu ngẩng trời dư sức vá đá,

Dầm chân đất sóng vỗ an lành.

Biển Đông vạn dặm dang tay giữ,

Đất Việt muôn năm vững trị bình.

Chí những phù nguy xin gắng sức,

Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình.

(Bản dịch của Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai)

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai – Giám đốc Trung tâm Minh Triết Việt Nam, bài thơ trên có tuổi đã 5 thế kỷ mà bây giờ càng đọc càng thấy rất thời sự, tưởng như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm nay. Bài thơ nguyên là để nói cái chí của cụ Trạng Trình, nhưng lại đọng trong đó một tư tưởng chiến lược: “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ, Đất Việt muôn năm vững trị bình”.

Ông Mai cho rằng, hai câu thơ dự báo về bảo vệ chủ quyền Biển Đông của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể hiện cái tâm thức biển đảo của người Việt.

Tự ngàn xưa, dân Việt đã là cư dân của văn hóa biển – đảo. Vạn dặm biển Đông phải quay về nắm lấy trong bàn tay. Làm được như vậy, mà phải làm được như vậy – làm chủ được biển Đông, thì muôn đời cõi trời, đất nước Nam này sẽ vững vàng trong cảnh thanh bình thịnh trị lớn lao.

Trạng Trình cũng là người đầu tiên nhắc đến quốc hiệu Việt Nam trong lịch sử dân tộc.

Cuối cùng, những lời sấm của nhà tiên tri số 1 Việt Nam cũng vẫn quay trở về với ý nghĩa sâu xa như ngay trong lời cảm đề ông đã viết: “Bí truyền cho con cháu - Dành hậu thế xem chơi”!