Khắp các đền điện Việt Nam, Quan Nam Tào và Bắc Đẩu là 2 vị quan được phối thờ hầu cận kề bên Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vậy sự tích, đền thờ, ngày lễ hội Nam Tào Bắc Đẩu như thế nào? Hãy cùng Tamlinh.org tìm hiểu
Để hiểu biết thêm về thân thế của hai vị quan Quan Nam Tào Bắc Đẩu mời độc giả đọc hết bài viết này.
Sự tích về Quan Nam Tào Bắc Đẩu
Theo tích truyện kể lại còn lưu truyền trong dân gian, Quan Nam Tào Bắc Đẩu vốn là hai người phàm trần, họ là hai anh em ruột sinh đôi. Bà mẹ của họ già nua mới bắt đầu có thai và đến 69 tháng mới sinh ra hai cục thịt dính máu, không đầu, không có tay chân. Bà tính vứt đi, nhưng rồi thương đem cất ở xó nhà.
Tự nhiên 100 ngày sau hai cục thịt hóa ra hai chàng trai khỏe mạnh, thông minh, trí nhớ phi thường, có thể nhớ đủ chuyện xảy ra khắp nơi. Đức vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy vậy tuyển hai người làm Quan trên trời, ghi nhớ những việc sinh, tử của loài người.
- Trong đó Nam Tào ghi chép sổ sinh đứng bên trái (phương nam)
- Bắc Đẩu ghi chép sổ tử đứng bên phải (phương bắc ) cạnh Ngọc Hoàng.
Họ ghi lại thiên mệnh của mỗi người từ lúc sinh đến lúc chết, quy định số nghèo sang, lành dữ, sau khi chết phải đầu thai kiếp gì, họ cũng ghi chép cả số kiếp đầu thai các loài vật.
Cũng vì lắm việc như thế nên Bắc Đẩu nhiều khi cầm chiếc dao thần sát phạt bừa bãi dân lành, khiến cho một thuở mạng người chết như rạ, trẻ con cũng sống được có vài ba năm rồi chết.
Ở vùng Liêm Sơn, Thanh Liêm, Hà Nam ngày nay, có một chàng trai tên là Đô Kình, sinh ra không có mắt, chỉ yếu ớt thoi thóp thở, nhưng được một bà mụ ban phép cho khỏe mạnh phi thường, mắt sáng long lanh, lại có phép nhìn xa trông rộng, đi mây về gió. Bức xúc trước việc làm tắc trách của Bắc Đẩu, Đô Kình mới đạp mây gió lên Thiên Đình.
Chàng thấy Bắc Đẩu cả ngày cầm dao, chỉ khi nào ngủ, ôm vợ trong tay mới để dao đầu giường. Đô Kình nhân lúc vợ Bắc Đẩu đi tắm, bế thốc cô nàng ném tòm xuống ao. Bắc Đẩu vội bỏ dao, lao xuống cứu vợ. Nhanh như cắt, Đô Kình đoạt dao phóng xuống trần.
Bắc Đẩu đuổi theo, dùng đủ quyền phép nhưng Đô Kình đều thoát. Từ đó mà người trần không bị Bắc Đẩu đoạt mạng nên sống thọ hàng trăm năm.
Nhà Trời nhiều lần đổ mưa lũ đòi dao nhưng Đô Kình đều thoát nạn, con dao thần được giữ cẩn thận.
Cho đến một ngày kia, quanh vùng có một con rắn thành tinh bắt người ăn thịt. Đô Kình hay tin mang dao trị rắn. Đến nơi, gọi rắn ra, gọi mãi chẳng thấy gì, bèn ngồi lên cây gỗ mục. Lập tức bị hất ngửa, văng con dao ra (cây gỗ là con rắn), nó hất Đô Kình ngã rồi ngoạm lấy dao thần.
Đô Kình đuổi theo rắn, nhưng Bắc Đẩu và Thiên Lôi nhân cớ ấy phóng sét xuống đốt Đô Kình cháy thành than. Bắc Đẩu phải đổi hàng vạn con nghé tươi để chuộc dao trở về.
Ngọc Hoàng Thượng Đế biết việc của Đô Kình, hỏi chuyện các quan mới hay tin. Ngài thương Đô Kình, trách Bắc Đẩu và bắt từ nay phải để loài người sống đến 100 tuổi. Nhưng Bắc Đẩu sợ để loài người sống lâu quá lại sinh ra lắm người mưu kế như Đô Kình, nên cứ lén bớt tuổi đi, chỉ cho họ sống đến 70-80 tuổi mà thôi, phúc lắm mới cho vài người sống trăm tuổi để trình Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Hiện nay đền thờ Quan Nam Tào Bắc Đẩu ở đâu?
Ngày nay, tại khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc thuộc tỉnh Hải Dương là nơi linh thiêng tồn tại những địa danh mang nhiều giá trị văn hóa tâm linh tín ngưỡng Trần Triều. Trong đó có hai ngôi đền Quan Nam Tào Bắc Đẩu tại đây rất nổi tiếng là nơi thờ hai vị quan thân cận của Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Cả hai ngôi đền thuộc địa phận xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Tọa lạc trên hai ngọn núi đối xứng nhau qua đền Kiếp Bạc, đền thờ Quan Nam Tào Bắc Đẩu đều được đánh giá là đã có tuổi đời rất lâu. Đền quan Nam Tào nằm trên núi Dược Sơn và đền Quan Bắc Đẩu thuộc núi Vạn Kiếp. Đứng trên hai đỉnh núi này có thể quan sát được cả một vùng làng mạc rộng lớn và ngôi đền Kiếp Bạc linh thiêng.
Nằm trên khuôn viên thuộc di tích Kiếp Bạc, đền Nam Tào và đền Bắc Đẩu nằm tại hai bên tả hữu so với đền thờ Trần Hưng Đạo Đại Vương do quan niệm rằng hai vị Quan này hầu cận Vua Cha của dân tộc Đức Thánh Trần.
Đây cũng là nơi lưu giữ di tích vọng gác tiền tiêu Trạm Điền của Trần Hưng Đạo trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Theo các bô lão kể lại, xưa kia cả hai ngôi đền đều được xây dựng khang trang, bề thế nhưng đã bị tàn phá không ít khi giặc Pháp xâm lược nước ta. Sau đó khi đất nước yên ổn, cả hai được xây mới trên chính nền đất cũ vào năm 1979, kiểu cách có đôi chút thay đổi so với trước đây.
Trải qua nhiều thăng trầm và chiến tranh, hai ngôi đền đã được tôn tạo không ít lần. Đặc biệt vào năm 2005, cả hai đã được tiến hành khai quật khảo cổ học. Tại đây, người ta phát hiện nhiều cổ vật có từ niên đại nhà Trần và nhà Lê.
Đây là cơ sở để năm 2007, UBND tỉnh tôn tạo di tích Nam Tào – Bắc Đẩu với quy mô uy nghi như ngày nay. Tọa lạc tại đỉnh núi Dược Sơn, đền Nam Tào nổi bật với những công trình kiến trúc như nghi môn, gác chuông, gác trống, tả hữu hành lang, đền chính, hậu đường uy nghi, cổ kính.
Đền Nam Tào được xây dựng trên nền đất có diện tích lên đến 2.000m2, đi theo kiến trúc 2 tầng 8 mái, mái được lớp ngói theo dáng mũi hài và hổ phù đội mặt trời. Đền chính kiến trúc hình chữ đinh gồm 3 gian tiền bái và hậu đường. Bên trong đền được bài trí thờ tự theo lối trước Thần sau Phật. Trước kia, đây vốn là một ngôi chùa tiền bái đặt tượng thờ quan Nam Tào, thượng điện đặt tượng thờ Phật.
Khi thực dân Pháp phá chùa vào năm 1947, nhân dân phải đem tượng quan Nam Tào và đồ tế tự xuống gửi ở đền Kiếp Bạc. Năm 1989, nhân dân địa phương góp tre, gỗ xây lại chùa Nam Tào trên nền móng của gian thượng điện và rước tượng về sau đó được tôn tạo lại thành đền như ngày nay. Với đền Bắc Đẩu, trước kia ngôi đền có kiến trúc hình chữ Đinh giống các công trình đền chùa thời xưa. Gian chính điện có tượng thờ Quan Bắc Đẩu làm bằng đồng ở tư thế ngồi, tay phải cầm chiếc bút, tay trái cầm cuốn “Sổ sinh tử”, trên ngực có hàng chữ Nho nổi “Bắc Đẩu chính thần tượng”.
Đây là pho tượng duy nhất còn lại sau khi thực dân Pháp.
Hệ thống tượng thờ trong đền Bắc Đẩu cũng được bài trí tiền thần hậu Phật tương tự đền Nam Tào.
Lễ hội đền Quan Nam Tào Bắc Đẩu vào ngày nào?
Hiện nay các hoạt động lễ hội của đền thờ Nam Tào Bắc Đẩu đều gắn liền với các hoạt động của lễ hội đền Kiếp Bạc. Cứ đến ngày 20 tháng 8 và 28 tháng 9 (âm lịch) hàng năm, nhân dân tổ chức lễ rước từ các Giáp ra đền Kiếp Bạc tiến hành lễ tế, sau đó rước về đền Nam Tào, Bắc Đẩu.
Ngoài ra, mỗi đền lại có một số nghi lễ riêng hướng tới Quan Nam Tào và Quan Bắc Đẩu được tổ chức tại đền mỗi vị. Vào dịp lễ trên, nhân dân các làng Dược Sơn, Vạn Yên, Bắc Đẩu lại tổ chức nghi thức dâng hương 2 Quan và từ di tích Nam Tào, Bắc Đẩu có lễ rước bộ linh đình về đền Kiếp Bạc dâng lên đức thánh Trần.
Quan Nam Tào, Quan Bắc Đẩu tuy có ít thông tin thần tích, lịch sử hai Ngài. Nhưng vẫn hiện hữu trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ được phối thờ hai bên Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế được dân chúng phụng thờ tưởng nhớ đến các Ngài.