Trong công đồng Trần Triều không thể không nhắc đến Vương Cô Đệ Nhị hay còn gọi là Cô Đôi Nhà Trần- một trong hai Nhị Vị Vương Cô vạn phép uy linh. Ghi nhớ công ơn anh dũng vệ quốc phù dân của Cô, người Việt nghiêm cẩn thờ phụng Vương Cô tại nhiều đền trên cả nước.
Đệ Nhị Vương Cô nhà Trần là ai?
Đệ Nhị Vương Cô (Vương Bà) Đại Hoàng Công Chúa Trần Thị Tĩnh. Cô là con gái thứ của Hưng Đạo Đại Vương.
Còn tương truyền rằng Vương Phu Nhân nằm mộng thấy vì sao sa xuống rồi lại thấy rồng ấp bên mình thì mang thai cô vào năm Bính Thìn.
Danh hiệu của Đệ Nhị Vương Cô là gì?
Cô tuy là con gái ruột của Đức Đại Vương và Vương Phu Nhân nhưng sau này lại phải đổi ra thành nghĩa nữ lấy hiệu Anh Nguyên (Thủy Tiên) Quận Chúa. Nên danh hiệu của cô là : Đệ Nhị Nữ Đại Hoàng Anh Nguyên Quận Chúa.
Giai thoại về Đệ Nhị Vương Cô nhà Trần
Hưng Đạo Vương rất quý mến Phạm Ngũ Lão, muốn gả cô cho Đức Ông họ Phạm, nhưng quy định của tôn thất nhà Trần là phải lấy người trong hoàng tộc, để bảo vệ ngai vàng. Vậy nên Đức Ông phải cho cô ra làm con nuôi, để khỏi phạm vào hoàng luật. Cô mang danh nghĩa tử của Hưng Đạo Vương, kết duyên cùng Phạm Ngũ Lão, trở thành Phạm Điện Súy Phu Nhân. Cũng có khi, cô còn thay quyền Hưng Đạo Vương, chấp chính ba quân, cô cũng không hề ngại gian nan, sát cánh cùng cha nơi chiến trường trong sự nghiệp vệ quốc thời Trần.
Sử nhà Nguyên xưa cũng chép rằng: Công Chúa (tức chỉ Vương Cô) dáng thanh như ngọc da trắng như ngà, dáng đi khoan thai giọng nói dịu dàng nhưng khi ra trận thi uy dũng, nam nhi ít người sánh bằng.
Thần Tích Đức Thánh Trần có ghi chép về Vương Cô như sau: “Bà tính tình thuần nhã, không kiêu căng, không sa sỉ, giữ đạo làm vợ, hiếu với cha mẹ, khi mất được phong Nữ Đại Hoàng Anh Nguyên Quận Chúa”. Cô là một nữ nhi kiệt xuất của Hưng Đạo Đại Vương, khi sống thì anh dũng góp công vệ quốc, khi thác hóa thì hộ quốc tí dân, tạo sự bình yên thịnh vượng.
Đệ Nhị Vương Cô theo về đạo Mẫu hay chỉ thờ bên Trần Triều?
Khi hầu về hàng Hội Đồng Trần Triều, giá Đệ Nhị Vương Cô hay được hầu nhất (vì cũng theo một số quan niệm, thì Đệ Nhị Vương Cô thường hay theo về bên Tứ Phủ, vậy nên những người hầu Trần Triều cùng với Tứ Phủ thường hay mở khăn giá Đệ Nhị Vương Cô).
Đệ Nhị Vương Cô khi ngự đồng
Khi ngự đồng cô thường mặc trang phục giống như Vương Cô Nhất nhưng không phải màu đỏ mà là màu vàng, tuy nhiên cũng do ảnh hưởng của Tứ Phủ, một số nơi hầu Vương Cô Đôi lại mặc màu xanh, và hiện giờ thì đa phần người ta thường dùng màu xanh, khi ngự, cô dắt một chiếc kiếm và cờ lệnh sau lưng, còn tay thì cũng cầm một kiếm một cờ lệnh.
Trong hàng Trần Triều, cô là giá thứ 3 có làm phép để trừ tinh tróc tà, khi hầu cô người ta thường làm một số phép như: xiên lình (nghĩa là lấy chiếc ngạnh nhọn bằng sắt trắng, xiên từ má này sang má kia, bên trong miệng phải có ngậm quả cau.
Tuy nhiên hiện giờ cách xiên lình này không mấy người làm được mà nếu có người nào hầu về cô làm phép xiên lình thì thường chỉ dùng hai chiếc ngạnh, đêm vào hai bên má rồi xoắn lại cho nó chọc sâu vào má chứ không xiên từ bên này sang bên kia như lối cổ), ngoài ra còn có phép tiến lửa tróc tà (nghĩa là người hầu về cô đốt một bó hương rồi cho vào mồm ngậm tắt, vậy nên còn gọi là ăn lửa).
Thờ phụng Đệ Nhị Vương Cô
Tại các đền phủ trên cả nước, cô cũng thường được thờ với Đức Đại Vương trong các đền phủ. Nhưng riêng ở Đền Kiếp Bạc và Đền Bảo Lộc, cô lại ngồi cận bên hữu của Đức Vương Phu Nhân.
Ngoài ra, những đền khác nổi tiếng thờ phụng Nhị Vị Vương Cô Nhà Trần có thể kể tên là Đền thờ Bà Chúa Thượng Ngàn (Tam Đảo, Vĩnh Phúc) hay đền Trần Thương (Lý Nhân, Hà Nam).
Tiệc Đệ Nhị Vương Cô vào ngày bao nhiêu?
Ngày tiệc của Vương Cô Đôi là ngày 5/5 âm lịch. Tuy nhiên, các ngày tiệc của gia phong TRẦN TRIỀU trong cuốn Dược sơn kỷ tích toàn biên 1899 không ghi ngày này mà là 10 tháng 2 mới là hóa nhật triều thiên TRẦN TRIỀU VƯƠNG DƯỠNG NỮ THỦY TIÊN CÔNG CHÚA ĐIỆN HẠ
Trong khi hầu cô, văn thường hát những đoạn như:
“Cô Đôi tên hiệu Đại Hoàng
Quê cô Bảo Lộc, Thiên Trường, Trần Quan”
Bản văn Đệ Nhị Vương Cô
Trên ngàn tía đùng đùng gió cuốn
Đỉnh non xanh cuồn cuộn mây lồng
Trần triều đương thưở hưng long
Vua tôi cá nước mây rồng duyên ưa
Trời sinh đức đại vương giúp trị
Gia nguyên thần lai và ỷ thân
Phong trào nảy mực cầm cân
Ngoài biên phủ việt mấy sửa sang
Một sâm rợp cành vàng lá ngọc
Giòng kỳ sân chủy dác liền sinh
Một nhà chung đỉnh trâm anh
Đông a rạng vẻ bắc đình thêm xuân
Tiên bồng đảo vui trần bay xuống
Phật quan âm cũng giáng chân thân
Mơ màng giấc quế đêm xuân
Sao sa điềm ứng thánh thần thác sinh
Hoa sau trước trăm cành đua nở
Đóa hải đường hớn hở chiều xuân
Dáng đài các vẻ thanh tân
Song song ngọc đúc vàng cân khác thường
Tư trời lại đoan trang minh mẫn
Việc khuê môn giảng sẵn gia đình
Nữ tì bằng bậc khoa danh
Quyển vàng sách ngọc tập tành trong cung
Buổi vương phụ bệ rồng vâng chiếu
Ban kiếm cờ tiếu tiễn giặc nguyên
Trâm thoa đổi với cung tên
Giúp trong khổn nội chu toàn đảm đang
So nương tử đường nghiêu thưở trước
Trên tử điện sớm đội ơn trời
Trâm anh nếp cũ lâu đài nền xưa
Nền nhân cửa tướng khác vời
Năm mây có chiếu trên trời truyền cho
Đức thánh nữ kén vô cung cấm
Trưởng lụa cung đằm thắm thiên hương
Giúp trong trị nước an bang
Chu mười tội có áp khương mới vừa
Đức nghĩa nữ duyên ưa quyền quý
Tước phu nhân hiệu súy ngôi cao
Bia non ghi chép huân lao
Rõ ràng chung đỉnh dồi dào móc mưa
Khôn đức đều vẹn vừa trinh thục
Giá đã đành kim ốc nhường ai
Phong tiên sớm đội ơn trời
Trâm anh nếp cũ lâu đài nền xưa
Trên tử điện sớm trưa chầu trực
Áo cẩm bào sực nức danh hương
Thâm nghiêm lầu hán cung đường
Kìa chiêu dương với phần hương khác nào
Ra sáu phép gần xa sức khỏe
Độ muôn dân già trẻ sống lâu
Giá đưa mây cuốn một màu
Ngày nghiêu tháng thuấn ra màu quan sơn
Mới ra uy lực trí thần thông
Lưới sa cá nước mây rồng
Nửa reo bích thủy nửa sông ngân hà
Thét một tiếng ngoan tà trốn chạy
Phép hai cô lừng lẫy vân tiêu
Giá đưa đông liễu tây đào
Vào trung ra hiếu trăm chiều đảm đang
Ngàn thu để khói nhang nghi ngút
Chín rồng chầu một giọt nước vơi
Khi xuống đất lúc lên trời
Gươm vàng hai chiếc rạch đôi sơn hà
Quế lan đã một màu xanh lá
Cũng ra tay phù tá đức ông
Quyền phong tiết chế trào trung
Xe loan chảy xuống mây rồng đưa lên
Gánh giang sơn hai vai còn nhẹ
Tuốt gươm thiêng rạch sẻ chín sông
Hương thơm thấu đến cửu trùng
Tỏa ra nghi ngút như dòng xích lâu
Đã khác trốn lầu tần quán sở
Gửi vào nơi chư sử ngũ kinh
Bút hoa chép để rành rành
Hương thơm bất tuyệt phúc lành hữu dư
Người tâm niệm phụng thờ tấu đối
Kẻ khấn cầu vọng bái xin con
Ai mà phải giống phạm nhan
Hay quân tàn sát hay đoàn yêu ma
Trên tấu đối ba tòa soi xét
Hai cô đều vạn phép uy linh
Muôn người bách bệnh tan tành
Nam sinh thanh tú nữ lành phương phi
Kể chi giống mã nhi bất nghĩa
Cùng nhưỡng loài càn sát nghạnh cường
Phong trần tuốt lưỡi gươm vàng
Chờ loài yêu quái ma vương bỏ ngoài
Bước vào trốn thiên thai quỷ phục
Chảy xuống miền địa ngục thần kinh
Hai cô vạn phép uy linh
Kẻ lên trướng tía người về cung hoa
Khi lên điện thánh bà tấu đối
Khi về chầu thánh phụ quỳ thưa
Trăm triều nghiêm ngặt khoan từ
Khi chơi địa phú lúc chơi thiên đình
Thét một tiếng tà linh trốn lủi
Phép hai cô dũng mãnh tài cao
Tàng hình biến tướng trăm chiều
Yêu ma sợ hãi tót vào trong thanh
Thét một tiếng thần kinh quỷ phục
Hai cô đều giáng phúc lưu ân
Cát đằng duyên hợp tấn tần
Các miền đệ tử xa gần cùng sang
Người xin dấu cửa đền sân miếu
Kẻ ra vào lĩnh chiếu đổi gươm
Đêm về tu thiết tĩnh đường
Đêm ngày vọng bái đèn hương khẩn cầu
Đặng sống lâu bách niên trường thọ
Lợi lộc tài đôi chữ kiêm thu
Lòng thành bái vọng hai cô
Năm canh quỳ trước hương lô khẩn cầu
Sớm khuya tam chắp khấu đầu
Ngàn năm hưởng thọ thiên thâu thọ trường.