04/06/2021 11:51 View: 1104

Truyền kỳ Yên Tử P12: Cuộc cướp phá thảm khốc lăng mộ vua Trần Nghệ Tông

Nghe người đàn ông bảo đây là mộ hủi, những người đào bới, cướp phá mộ vua Trần Nghệ Tông bỏ chạy toán loạn. 

Tôi rời lăng mộ vua Trần Anh Tông trong cảnh trời mưa tầm tã, sấm chớp đùng đùng. Người chèo đò gọi tôi về bờ gấp, bởi chỉ lát nữa, nước sẽ dâng ngập hồ và nhấn chìm khu lăng mộ vua trong dòng nước bạc.

Từ đập Trại Lốc, đi vòng vèo trên những con đường đất đỏ trơn trượt dọc chân Yên Tử về phía Tây thì đến khe một dãy núi. Khe núi này có tên là Khe Nghệ (thuộc xóm Bãi Đá, thôn Bãi Dài, An Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh). Có lẽ, khe núi này là nơi đặt lăng mộ vua Trần Nghệ Tông, nên người ta mới gọi là Khe Nghệ.

Vòng vèo mãi, xuyên qua những trang trại rậm rịt vải, nhãn, na, rồi tôi cũng tìm được nhà anh Nguyễn Văn Chạm. Gia đình anh Chạm nằm ngay chân dốc, muốn đi vào lăng mộ vua Trần Nghệ Tông thì buộc phải đi qua ngõ và sân nhà anh.

Tôi nhờ anh Chạm dẫn đường lên mộ vua, anh Chạm cứ ngần ngừ, vẻ ngại ngùng. Sau này, trò chuyện, tôi mới biết có vô vàn chuyện đồn thổi khủng khiếp mang màu sắc mê tín dị đoan, khiến người dân trong vùng rất sợ, không dám tìm đến khu mộ này. 

Tôi phải thuyết phục mãi, anh Chạm mới đồng ý dẫn đi. Anh thắp nhang trên bàn thờ, khấn vái Thần linh, Thổ Địa, khấn vái cả vua Trần Nghệ Tông cho phép anh được dẫn nhà báo lên đồi.

Đứng trên sườn dốc, anh Chạm vòng tay chỉ khu vực thung lũng Khe Nghệ. Toàn bộ diện tích thung lũng khoảng 100ha, kéo dài từ sườn Tây Yên Tử xuống đến đồng bằng. Mộ vua Trần Nghệ Tông nằm trên mỏm đồi cao nhất của thung lũng. Mặt bằng ngọn đồi rộng tới 5 héc-ta. Theo lời anh Chạm, những ngày trời trong, đứng trên mỏm đồi sẽ nhìn thấy dãy núi Kinh Môn (Hải Dương) án ngữ và di tích chùa Cao trên đỉnh dãy núi đó.

Đi qua khu vườn na khá sạch sẽ của gia đình anh Chạm thì đến khu vườn vải. Khu vườn vải rộng mênh mông, choán hết mỏm đồi, như một khu vườn hoang, cỏ mọc lút gối. Chúng tôi phải vạch cỏ mới đi được. Những cây vải khá lớn, song do không được chăm sóc, nên xác xơ, chẳng có quả.

Anh Chạm bảo: “Mấy năm nay không có bóng người nào mò vào khu vực này đâu. Người dân trong vùng cũng chẳng dám thả trâu bò lên đồi. Ai cũng sợ vua trừng phạt vì tội phá mộ. Đất này là đất của vua, nên không ai dám xâm phạm”.

Sau một hồi luồn lách trong đám cỏ gianh thì đến một khu đất thoáng đãng, không có cây vải nào. Tuy nhiên, giữa khu đất ấy, lau lác mọc um tùm, cao đến ngực. Tại khu đất trống ấy, có một “miếu thờ” vua Trần Nghệ Tông. 

Nói là miếu thờ cho đỡ tủi, chứ thực tế quá thảm hại. Anh Chạm bảo, mấy năm trước, các nhà khoa học về nghiên cứu, đo vẽ một hồi, rồi họ bỏ đi. Các nhà khoa học xót xa cho khu lăng mộ vua Trần Nghệ Tông, nên đã chi tiền mua 2 tấm phi-brô-ximăng, còn anh Chạm thì nhiệt tình chặt mấy khúc cây, rồi dựng lên cho có chỗ đặt bát hương. Từ bấy đến nay, cũng chẳng có ai hương khói, thờ tự. Bát hương lạnh lẽo phơi nắng gió mấy năm nay rồi.

Tôi vạch từng gốc cây, bụi cỏ, song chẳng tìm thấy di vật nào ngoài mấy cục đá vỡ nát chả khác gì đá nung vôi và một cái chân bia hiện làm nơi đặt bát hương trong “miếu thờ”. 

Anh Chạm dẫn tôi ra phía sau miếu rồi vạch bụi cỏ lau cao quá đầu chỉ tay và giải thích rằng, đó là nơi đã diễn ra cuộc cướp phá lăng mộ vua Trần từ 20 năm trước. 

Trước đây, khu vực ven núi thuộc địa bàn An Sinh là nơi người Hoa sinh sống. Tuy nhiên, sau năm 1979, người Hoa bỏ vùng đất này đi đâu không rõ. Toàn bộ thung lũng Khe Nghệ rộng lớn không có người ở, cây cỏ rậm rạp. 

Người Hoa đi, người Kinh ở nơi khác kéo về phát rừng làm vườn. Vào tháng 3 năm 1990, một nhóm người phát rừng làm nương đã phát hiện lăng mộ đặc biệt này. Nghĩ rằng trong ngôi mộ có kho báu, nên người ta đã đào tung lên. 

Thông tin nhóm người đào mộ được… kho báu nhanh chóng lộ ra, cả xóm Bãi Đá kéo đến… hôi của. Người dân đã đào một khoảng đất rộng tới 30 mét vuông và sâu xuống lòng đất 4 mét.

Khi đào xuống độ sâu này, người dân moi được những súc gỗ lớn. Những người tham gia đào bới đều được chia phần, mỗi người một vài súc. Người xẻ ra đóng giường, người đóng tủ, người đóng cánh cửa, bàn ghế. Những sản phẩm làm từ gỗ lấy ở ngôi mộ này hiện nhiều gia đình vẫn dùng và vẫn rất tốt.

Theo lời kể của ông Đào Văn Hồng, người trực tiếp tham gia đào mộ, thì gỗ làm mộ không phải là gỗ lim mà là gỗ nghiến và gỗ táu. Những súc gỗ lớn này được xếp thành một gian phòng kín trong lòng đất, được đóng mộng với nhau rất chặt, khít.

Qua mô tả của ông Hồng, có thể khẳng định rằng, vua Trần Nghệ Tông được chôn trong một ngôi mộ gỗ đóng cũi, còn gọi là mộ cũi. Đây là loại mộ có từ thời Bắc thuộc, tồn tại song song với mộ gạch. Tuy nhiên, đến thời Lý và Trần, mộ gạch và mộ gỗ có quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với thời Bắc thuộc. 

Theo lời ông Hồng, bên trong ngôi mộ gỗ mà người dân đào phá có rất nhiều than gỗ, khối lượng lên đến vài tấn. Bên trong lớp than là lớp vôi bột, rồi đến lớp “hắc ín”. Ông Hồng cũng như người dân trong xóm không biết chất này là gì, chỉ thấy nó màu đen, mềm, giống hắc ín, nên gọi như vậy. Tuy nhiên, theo phán đoán của tôi, có thể chất này là một loại nhựa cây, có tác dụng bảo quản di hài vua Trần Nghệ Tông, vì như lời ông Hồng, thì chất này đốt cháy đùng đùng và tỏa ra mùi thơm dễ chịu.

Khi đó, vợ ông Hồng cùng nhiều người khác nữa đã tranh nhau gánh than, “hắc ín”, vôi bột về để… bón ruộng. Mỗi người lấy cả chục gánh mà không hết. 

Người dân trong xóm đồn rằng, ông B. lấy được rất nhiều “bạch phiến” màu trắng trong mộ cùng với vàng bạc, bán được rất nhiều tiền. Sau khi trúng quả, ông B. bỏ người vợ từng đồng cam cộng khổ nơi quê nhà, vào Nam hưởng cuộc sống giàu có. Từ bấy đến nay, không thấy ông B. về làng nữa.

Tôi thì không tin chuyện có bạch phiến trong ngôi mộ này. Có thể đó chỉ là một chất bảo quản di hài có màu trắng mà thôi.

Theo lời ông Hồng, khi mọi người đang tranh nhau gánh than, “hắc ín”, vôi bột về bón ruộng, thì một người ở đâu mò đến kêu lớn: “Sao mọi người lại lấy những thứ này về? Ngôi mộ có than, lại rắc vôi bột là mộ chôn người hủi đấy. Người ta rắc vôi để tránh bệnh hủi lây nhiễm”. Khi đó, không ai biết đây là mộ vua. 

Nghe người đàn ông bảo đây là mộ hủi, những người đào bới, cướp phá mộ vua Trần Nghệ Tông bỏ chạy toán loạn. Mọi người nhảy xuống suối kỳ cọ rất sạch sẽ. Từ đó, người dân trong xóm Bãi Đá gọi ngôi mộ này là… mộ hủi. Nghe mà xót xa cho một vị vua nổi tiếng của một triều đại thịnh trị.