Đền Đền Truông Bát hay đền Bà Chúa Lộc thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đền thờ Bà Chúa Lộc thân mẫu của Ông Hoàng Mười Nghệ An.
Cùng Tamlinh.org đi tìm hiểu về Đền Bà Chúa Lộc – đền Truông Bát qua bài viết này.
Đền Truông Bát ở đâu Hà Tĩnh?
Đền Truông Bát là một di tích cổ được xây dựng cách nay khoảng 600 năm, toạ lạc trên một vùng non xanh nước biếc, ở một góc Ngã ba Khe Giao – chỗ gặp nhau của Tỉnh lộ 3 và Quốc lộ 15, thuộc thôn 1, xã Ngọc Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Đền thờ Bà Chúa Lộc nằm ở vị trí rất thuận tiện về giao thông: từ trung tâm thành phố Hà Tĩnh đi lên khoảng 12 km, từ ngã ba Đồng Lộc đi tới khoảng 9 km.
Bà Chúa Lộc là ai?
Đi qua ngã ba Đồng Lộc là đến đền Truông Bát, là nơi thờ Vương Nương Thánh Mẫu đệ nhị Thượng ngàn hay còn gọi là Lộc Hoa Công Chúa (Bà Chúa Lộc). Tên thật bà là Phạm Thị Thoả, quê ở huyện Đỗ Gia nay thuộc phần đất của huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
Bà có chồng tên là Nguyễn Duy Lạc quê ở thôn Xuân Am Mỏ Hạc, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Bà sinh hạ được một người con trai đặt tên là Nguyễn Duy Khôi (Dân gian thường gọi ông Nguyễn Duy Khôi, được Vua ban quốc tính là Lê Khôi, là Ông Hoàng Thập hay ông Hoàng Mười).
Bà Phạm Thị Thoả (Bà Chúa Lộc) sống vào thế kỉ XV, một giai đoạn lịch sử biến động của dân tộc Việt Nam: năm 1400 – Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Nhà Minh liền muợn cớ “Phù Trần diệt Hồ” kéo quân sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ nhanh chóng sụp đổ, nhà Minh đặt nền đô hộ lên đất nước ta. Ở Lam Sơn – Thanh Hóa, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa.
Trước tình hình đó, bà Phạm Thị Thỏa đến vùng đất nay thuộc xã Ngọc Sơn chiêu mộ binh lính, khai khẩn đất hoang, tích lũy lương thực, rèn luyện binh khí chờ đợi thời cơ khởi nghĩa đánh quân Minh. Đến những năm 1425 – 1426 nghe theo kế của Nguyễn Chích, Lê Lợi tiến quân về hướng Nam lấy Nghệ Tĩnh nơi đất rộng người đông làm chỗ “lập cước chi địa” tạo đà tiến đánh thành Đông Quan giải phóng đất nước.
Ở Nghệ Tĩnh, nghĩa quân Lam Sơn cùng con trai của bà Phạm Thị Thỏa là Lê Khôi được nhân dân đùm bọc, che chở, đóng góp sức người sức của cho nghĩa quân trong đó có cả bà Phạm Thị Thỏa. Bà cầm quân tiến đánh giặc Minh ở miền Cửa Sót (nay thuộc xã Thạch Kim – Thạch Hà – Hà Tĩnh).
Trong lúc mải mê đánh giặc, bà hay hung tin con trai (Nguyễn Duy Khôi tức ông Hoàng Mười) tử trận do bị tướng giặc Minh Thái Phúc chém đứt đầu. Bà Phạm Thị Thỏa bối rối và đau xót vì người con trai duy nhất của mình đã tử trận (tại Lạch Quèn, nay thuộc huyện Quỳnh Lưu – Nghệ An), tuy vậy bà vẫn không rời quân ngũ.
Thế giặc mạnh, bà Phạm Thị Thỏa cùng viên tướng của nhà Lê tên là Sử Hy Nhan chống cự không nổi đã lui quân về chiến hào tại vùng đất thuộc xã Ngọc Sơn, nơi có một cây cổ thụ rất lớn. Bà cùng nghĩa quân ẩn náu nơi đó để chờ viên tướng trẻ trong lúc thua trận thất lạc. Nhưng chờ mãi bà cũng không thấy Sử Hy Nhan đến nơi đã hẹn.
Bỗng một hôm mưa to gió lớn, sấm chớp ầm ầm có một ông Hổ lớn ba chân xuất hiện cõng bà chạy thẳng lên hướng núi Đồng Bụt (nay thuộc Truông Bát, Khe Giao) có hai hòn đá lớn ông Hổ đặt bà xuống đấy mà không ăn thịt bà. Ngược lại ông Hổ còn bắt người và thú rừng mang về cho bà ăn thịt, nhưng bà Phạm Thị Thỏa chỉ hái hoa quả ăn qua ngày.
Bà trút hơi thở cuối cùng ở Rú Đọi.
Đến khi Thái tử Nguyên Long con trai của Vương phi thứ ba của Lê Lợi (bà Phạm Thị Ngọc Trần) lên ngôi vua, niên hiệu Lê Thái Tông. Thương xót bà Phạm Thị Thỏa, vua đã cùng đoàn tùy tùng và quân lính tìm đến vùng đất nơi bà tập hợp nghĩa quân có cây cổ thụ lớn (gọi là Miếu Đọi ngày nay).
Chờ đợi bà Phạm Thị Thỏa mãi không thấy, nhà Vua tiến vào rừng sâu dưới chân núi Đọi, nơi có hai phiến đá, thì tìm thấy thi thể của bà đã được mối làm mộ. Vua thấy vậy rất thương xót cho một người phụ nữ – một nữ tướng văn võ song toàn đã phò Lê giúp nước. Vua Lê Thái Tông đã lập miếu thờ bà và phong cho bà là Vương Nương Thánh Mẫu Lộc Hoa Công Chúa Thượng đẳng tối linh.
Lại có thơ kể rằng, sau này, khi vua Minh Mạng kinh lý qua đây bằng voi ngựa, quân thần khi đi đến Khe Giao đột nhiên trời tối sầm, mây đen vần vũ, voi ngựa không chịu đi thêm nữa. Vua nhìn lên phía trước mặt, cây cối um tùm rủ xuống ngôi miếu rêu phong, linh khí bay lên từ đấy. Nhà Vua và quân thần cảm thấy trong người ớn lạnh, vội buộc voi ngựa, vào miếu dâng hương tiến lễ vái lạy.
Một lúc sau, mây tan, gió lặng, núi rừng trở lại phong quang, nhà Vua và quân thần mới đi lại được.
Thấy sự kỳ lạ của ngôi miếu nơi “thâm sơn cùng cốc” về đến triều vua phong cho thần miếu là Vương Nương Thánh Mẫu – Cao Sơn Thần Nữ – Chế Thắng Mã Vàng Lê Mại Đại Vương – Thượng Thương – Thượng Đẳng tối linh thần. Rồi lại lập đền thờ nguy nga ngay trên nền Miếu thiêng và chỉ dụ các thần dân đến tế lễ.
Lịch sử xây dựng đền Truông Bát – đền Bà Chúa Lộc
Đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp, do nhiều nguyên nhân khác nhau, ngôi đền thờ Vương Nương Thánh Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn Lộc Hoa Công Chúa bị huỷ hoại và bỏ hoang. Mãi đến năm 2006, từ một cơ duyên đặc biệt đã đưa thầy Ngô Thanh Cẩn đến phục dựng tôn tạo lại.
Đến tháng 2-2008, có hai đơn vị là công ty Cổ phần đầu tư Thành Công (Nghệ An), Công ty TNHH Xuân Hà (Hà Tĩnh) và đạo hữu đã công đức toàn bộ nguyên vật liệu, công sức để xây dựng lại ngôi đền khang trang như hiện nay. Từ chỗ chỉ là một vùng rêu phong hoang lạnh, qua quá trình tôn tạo, đến nay Đền trở nên uy nghi hơn.
Giữa thung lũng của 8 ngọn núi trùng trùng điệp điệp là Thượng điện, trung điện, hạ điện nguy nga đồ sộ với những tượng vàng, bàn vàng tôn nghiêm, lộng lẫy. Đường vào đã được đổ bê tông rộng rãi.
Đền Truông Bát thờ Bà Chúa Lộc là kết tinh của vẻ đẹp tâm linh và nét đẹp của cảnh quan hùng vĩ. Trong Đền cũng thờ Mẫu Đệ nhất (Liễu Hạnh), Mẫu Đệ tam (Thoải phủ) nên gọi là Đền thờ Tam phủ và 7 vị khác.
Đây là nơi hội tụ của du khách thập phương không chỉ vì tín ngưỡng tâm linh mà còn để chiêm ngưỡng phong cảnh hữu tình.
Lễ hội đền Truông Bát – đền Bà Chúa Lộc
Cứ hàng năm, vào mùng 7 tháng 4 âm lịch đền Truông Bát lại mở tiệc vào ngày húy kỵ của Bà Chúa Lộc, cũng là ngày lễ Hội ở Đền Bà Chúa Lộc.
Thơ về Phủ Chúa Lộc – Truông Bát
Truông Bát phủ chúa đề huề
Ngũ Phương bản cảnh giáng về ngự vui
Chúa Bà giá ngự chính ngôi
Thanh đồng đệ tử các nơi xa gần
Độ cho trọn vẹn mười phần
Phần tươi, phần tốt, phần gần, phần xa
Dâng lên chính cửa Chúa Bà
Nón dâu, áo bạch, quạt ngà hoa tiên