Trong hệ thống Trần Triều, Lục Bộ Đức Ông là 6 vị tướng tài tuy không mang họ Trần nhưng lại có công lớn với lịch sử phát triển của nhà Trần nên luôn được phối tự ở các Đền Trần Triều. Vậy 6 vị tướng tài này là những ai? Công danh lưu vào sử sách như thế nào? Quyền phép và văn thỉnh Lục Bộ Đức Ông Trần triều? Hầu Lục Bộ Đức Ông?
Tục thờ Nhà Trần gắn với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, tức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, dân gian gọi nôm là thờ Nhà Trần. Tín ngưỡng này khác biệt ở điểm không phải thờ các vua Trần hay các dòng tộc triều đại Trần mà thờ Đức Thánh và các tướng lĩnh, con cái… của ông.
Hệ thống các vị Thánh nhà Trần
Tín ngưỡng thờ cúng nhà Trần gắn liền với những huyền tích về Đức Thánh Trần - một vị anh hùng dân tộc có công lớn dẹp quân Nguyên. Được hình thành từ quá trình thần hóa một nhân vật có thật trong lịch sử, anh hùng dân tộc là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và con cái, tướng lĩnh hầu cận tạo nên một hệ thống thờ tự chặt chẽ, lề lối với đủ các cấp bậc.
Các vị Thánh nhà Trần gồm: Đứng đầu là Đức đại vương chính cung (Cửu Thiên Vũ Đế Trần Triều hiển thánh Thái Sư Thượng Phụ Quốc Công bình bắc đại nguyên suý Nhân Vũ Hưng Đạo đại vương thượng thượng thượng đẳng thần). Hầu cận Đức Thánh là quan Nam Tào và quan Bắc Đẩu.
Tiếp theo Tứ vị vương tử là con của Đức Thánh là: Đức thánh Cả (Khai quốc công Hưng Vũ đại vương Trần Quốc Nghiễn), Đức Phó Tằng (Tiết độ sứ Hưng Nhượng đại vương Trần Quốc Uất), Đức thánh Tam (Khai quốc công Hưng Hiến đại vương, Đệ tam Ông cửa suốt Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng), Đức thánh đệ tứ (Khai quốc công Hưng Trí đại vương Trần Quốc Hiện).
Cùng với đó là Nhị vị vương cô Đức tiên cô đệ nhất (Trần triều Vương nữ đệ nhất Quyên Thanh công chúa Trần Thị Trinh) và Đức tiên cô đệ nhị Đại Hoàng (Trần triều Vương nữ đệ nhị Đại Hoàng công chúa Điện Súy phu nhân Trần Thị Tĩnh).
Tiếp theo, Lục Bộ Đức Thánh Ông (đây là các danh tướng không mang họ Trần nhưng thuộc về công đồng Trần triều và luôn được phối tự ở các Đền Trần Triều, các hàng lục bộ đều mặc áo đỏ, về bắt tà, đi trên than lửa, lưỡi cày nung nóng) Gồm Điện Tiền Phò Mã Phạm Tướng Quân; Tả Yết Kiêu tướng quân; Hữu Dã Tượng tướng quân; Nghĩa Xuyên tướng quân; Hùng Thắng tướng quân; Huyền Quang tướng quân.
Cuối cùng là cô bé Cửa Suốt, cậu bé Cửa Đông và chư quan tướng hạ ban Ngũ hổ tướng quân.
Lục tướng Trần Triều trong sử sách
Điện Tiền Phò Mã Phạm Tướng Quân: Phạm Ngũ Lão
Phạm Ngũ Lão (1255–1320) là tướng nhà Trần trong lịch sử ViệtNam. Ông là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, ViệtNam). Theo sách Tông phả kỷ yếu tân biên của Phạm Côn Sơn dẫn gia phả họ Phạm, ông là cháu 8 đời của tướng Phạm Hạp thời nhà Đinh.
Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút có kể lại chuyện Phạm Ngũ Lão ra mắt Trần Hưng Đạo đại ý như sau: Hưng Đạo Vương cùng tuỳ tùng đi ngang qua Đường Hào thấy Phạm Ngũ Lão ngồi bên vệ đường đang đan sọt. Quân lính kéo đến, dẹp lối đi. Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi thản nhiên, như không để ý đến ai cả. Quân lính cầm giáo đâm vào đùi chảy máu mà ông vẫn không nhúc nhích, thấy vậy Vương dừng lại hỏi, bấy giờ Phạm Ngũ Lão mới trả lời rằng đang nghĩ một câu trong binh thư nên không để ý. Biết người có tài, Trần Hưng Đạo cho ông ngồi cùng kiệu đưa về kinh sư. Từ đó Phạm Ngũ Lão trở thành môn khách của Trần Hưng Đạo.
Ông được Trần Hưng Đạo gả con gái (giả làm con gái nuôi của Trần Hưng Đạo vì nhà Trần có quy định chỉ gả con gái trong dòng tộc) là quận chúa Anh Nguyên.
Trong hai cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên (1285-1288) Phạm Ngũ Lão lập được nhiều chiến công. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai ông cùng với Trần Quang Khải tiến đánh Chương Dương, Hàm Tử, đập tan đội binh thuyền khổng lồ của giặc và diệt quân Nguyên chiếm đóng Thăng Long. Sau đó, Phạm Ngũ Lão được lệnh mang 3 vạn quân phục kích đánh địch ở Vạn Kiếp, chặn đường địch rút chạy lên biên giới phía bắc và diệt được hai phó tướng địch là Lý Quán và Lý Hằng.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba, Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận phục kích đường rút lui của giặc trên sông Bạch Đằng, trong trận này quân nhà Trần bắt sống các tướng nhà Nguyên là Phàn Tiếp, Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi. Phạm Ngũ Lão tiếp tục truy kích cánh quân của Thoát Hoan trên đường bộ.
Năm 1290, vua Trần Nhân Tông giao cho ông cai quản quân Thánh Dực, phong chức Hữu Kim ngô Đại tướng quân. Đến đời vua Trần Anh Tông, ông được thăng tới chức Điện súy Thượng tướng quân, tước Quan nội hầu. Một người con gái của Phạm Ngũ Lão hiệu là Tĩnh Huệ là thứ phi của vua Anh Tông.
Phạm Ngũ Lão đã ba lần cất quân đi trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao vào các năm 1294, 1297 và 1301; hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành vào các năm 1312 và 1318, buộc vua Chiêm là Chế Chí phải xin hàng.
Không chỉ có tài về quân sự, mà ông còn để lại nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước. Hiện nay tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài là Thuật hoài (Tỏ lòng) và Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương (Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương).
Ngày 1 tháng 11 năm 1320, Phạm Ngũ Lão mất, hưởng thọ 66 tuổi. Vua Trần Minh Tông nghỉ chầu 5 ngày, đây là một đặc ân của nhà vua đối với ông.
Nhân dân xã Phù Ủng dựng đền thờ ngay trên nền nhà cũ của ông. Ông cũng được phối thờ tại đền Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương tại đền thờ Trần Hưng Đạo.
Tả Yết Kiêu tướng quân
Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, con ông Phạm Hữu Hiệu, người thôn Hạ Bì và bà Vũ Thị Duyên, người huyện Thanh Hà. Cha làm nghề chài lưới bên sông Quát, mẹ bán hàng nước ở bến đò. Cuộc sống bần hàn của một gia đình ngư dân nghèo khó và sớm mồ côi cha đã khiến Phạm Hữu Thế rất vất vả, phải chài lưới, cào hến giúp mẹ kiếm ăn ngay từ nhỏ. Cuộc sống trên sông nước đã khiến ông bơi lội rất giỏi.
Tương truyền, năm 15 tuổi, vào một buổi sáng tinh mơ, Phạm Hữu Thế ra sông gánh nước. Sương trắng mù mịt nổi khắp mặt sông, Phạm Hữu Thế thấy hai con trâu trắng húc nhau liền dùng đòn ống đánh đuổi, can ngăn. Hai con trâu biến mất, Hữu Thế thấy còn hai chiếc lông còn dính vào đòn ống, đặt xuống nước, nước rẽ ra làm đôi. Cho đây là lông trâu thần, ông liền nuốt vào bụng. Từ đấy, Phạm Hữu Thế có thân thể hùng cường, trí lực, bơi lội tài giỏi, đi trong nước như ở trên đất bằng vậy.
Sự lạ lùng ấy ứng với bức hoành phi trong đền Quát “Thiên cổ dị nhân” (từ trước tới nay mới có người lạ thường như vậy). Thực ra, đây là một cách lý giải tài bơi lội của Phạm Hữu Thế để làm tăng thêm tính phi thường của viên tướng xứ Đông này, khẳng định tài bơi lội của ông như do thần linh mang lại.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu Thế với tài bơi lội “nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ” (đi dưới nước ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều công lao lớn, được vua ban danh hiệu Trần triều đệ nhất đô soái thuỷ quân. Ông đã được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa). Nhiệm vụ của Yết Kiêu là tìm cách đục thuyền của giặc trong đêm. Khi màn đêm buông xuống, Yết Kiêu tìm cách vượt qua hàng lính bảo vệ thuyền giặc rồi nhẹ nhàng đục thuyền giặc. Mỗi thuyền phải đục khoảng trên 20 lỗ, đục được lỗ nào lại phải dùng giẻ đã cuộn tròn và buộc dây đút lút lại. Những cuộn giẻ ấy đều được buộc lại với nhau bằng một sợi dây.
Một đêm, Yết Kiêu đục được khoảng 30 thuyền giặc. Đến gần sáng khi đã đục đủ số thuyền đã định, Yết Kiêu liền kéo dây khiến những nút giẻ trôi ra khỏi thuyền, khiến hàng chục thuyền giặc bị đắm. Hoàn thành nhiệm vụ, ông lại nhẹ nhàng bơi về địa điểm an toàn. Có lần, Yết Kiêu bị vây bắt ở bãi sông. Ông núp mình dưới những bụi cây mọc lúp xúp và tránh sự lùng sục gay gắt của giặc. Chúng dùng kiếm đâm vào bụi cây, trúng đùi Yết Kiêu. Yết Kiêu cắn răng chịu đựng, khi kẻ thù rút kiếm ra, ông cố gắng chịu đau và dùng tay lau vết máu dính trên lưỡi kiếm để kẻ thù không phát hiện thấy mình...
Sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông thắng lợi, Bảng nhãn Lê Đỗ được triều Trần cử sang Nguyên triều đi sứ, mong nối lại hoà khí với nước mạnh hơn mình mà mang lại hoà bình cho nhân dân đất Việt. Yết Kiêu vốn là võ tướng thuỷ quân được cử làm tướng hộ vệ Lê Đỗ.
Trong lần đi sứ ấy, vua Nguyên rất mến mộ tài năng của Yết Kiêu liền tỏ ý muốn gả công chúa Nguyên triều vốn rất xinh đẹp cho ông. Ông liền từ chối khéo và thưa rằng để trở về tâu xin vua Đại Việt, nếu vua Đại Việt đồng ý thì sẽ xin sang Nguyên triều làm lễ cưới.
Trở về đất nước, vua quan triều Trần lo lắng sẽ mất một viên tướng tài giỏi nên không đồng ý. Công chúa Nguyên triều đợi mãi không thấy Yết Kiêu sang thì xin vua cha cho sang đất Đại Việt để làm lễ thành hôn với Yết Kiêu. Biết tin này, vua quan nhà Trần muốn ngăn cản cuộc hôn nhân, đã báo tin Yết Kiêu qua đời khi công chúa Nguyên triều mới đi đến vùng biển Quảng Đông giáp biên giới Đại Việt.
Công chúa vô cùng thương xót Yết Kiêu, bèn thuê người tạc tượng mình thả xuôi sang nước ta, lập đàn cầu siêu cho linh hồn Yết Kiêu bên bờ biển tỉnh Quảng Đông và cầu nguyện: “Thiếp và chàng sống trên trần thế chưa nên duyên chồng vợ, nay chàng không còn nữa, thiếp nguyện thác xuống âm phủ để gặp chàng và nên nghĩa vợ chồng”, rồi gieo mình từ đàn cầu siêu xuống biển Quảng Đông để tỏ lòng chung thuỷ. Hai võ quan và chín nàng hầu cũng nhẩy xuống biển tự vẫn để theo hầu công chúa...
Yết Kiêu mất ngày 28 tháng chạp năm Ất Sửu (1303), hưởng thọ 61 tuổi. Khi ông mất, vua Trần cho lập đền thờ ở bờ sông Hạ Bì quê ông là đền Quát. Khu đền đã trải qua hơn 700 năm, đến thế kỷ XVII- XVIII được tôn tạo khang trang và tu sửa nhiều lần vào triều Nguyễn. Khu di tích đền Quát được xếp hạng quốc gia (28-1-1989).
Hữu Dã Tượng tướng quân
Ông là một gia nô thân tín, trung thành của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tương truyền Ông rất giỏi huấn luyện voi, đã lập nhiều chiến công trong Kháng chiến chống Nguyên - Mông, đời Trần. Ông cùng với Yết Kiêu, Cao Mang, Đại Hành và Nguyễn Địa Lô là 5 thuộc hạ tài giỏi và trung thành của Hưng Đạo Vương. Trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, ông đóng góp đắc lực, tận tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn lúc bắt Toa Đô.
Có lần Hưng Đạo Vương thử ý ông mà nói: "Khi gia nghiêm ta từ trần có dặn bảo ta phải chiếm lấy thiên hạ. Các ngươi nghĩ sao?". Ông và Yết Kiêu đều nói: "Đại vương đã phú quý rồi, còn chúng tôi đến già vẫn làm gia nô, không muốn làm như thế, để tiếng xấu ở đời." Hưng Đạo Vương cảm động, từ ấy ông càng được tin trọng.
Tháng 1, 1285, do chưa lường hết sức mạnh của địch, Hưng Đạo Vương đã đem đại binh ngăn cản Thoát Hoan tại ải Nội Bàng. Kết quả trận đánh là quân Trần thua to, cả vạn binh lính bị giết và bắt sống tại trận. Lúc khởi binh, Hưng Đạo vương có dặn Yết Kiêu cắm thuyền đợi mình. Nhưng lúc tàn trận, Thuỷ quân đóng ở Bãi Tân làm chặn hậu cũng chạy tan tác cả. Trong lúc tháo lui khẩn cấp, Hưng Đạo định dẫn tàn quân luồn rừng về Vạn Kiếp, nhưng đúng là không ai hiểu bạn bằng Dã Tượng, đã ngăn Vương lại và bảo: "Kiêu chưa gặp Đại vương, ắt chưa nhổ thuyền đi nơi khác.", nghe thế, Hưng Đạo Vương bèn tức tốc đổi hướng tới bãi Tân. Quả nhiên trên bãi sông vẫn còn một con thuyền đứng đó cùng với viên tuỳ tướng. Thoát nạn, Hưng Đạo Vương ngửa mặt lên trời than“Chim hồng chim hộc bay được cao, tất phải nhờ có lông cánh mạnh, nếu không thì chả khác gì chim thường”.
Năm 1288, trên đường hành quân chuẩn bị cho trận Bạch Đằng nổi tiếng, con voi chở Hưng Đạo Vương bị sa lầy, chìm dần xuống bùn. Dù đã nhiều cách nhưng rồi con voi chiến thân thiết của Đại Vương cứ lún dần, lún dần. Dã Tượng và Hưng Đạo Vương nhìn người bạn đường chiến đấu thân thiết sắp hy sinh mà nước mắt lưng tròng. Dã Tượng bèn quỳ xuống trước mặt Vương xin người xuống ngựa đi tiếp cho kịp ra quân, còn mình xin ở lại rồi sẽ đuổi theo sau. Trong trận đánh sau đó, Dã Tượng giữ một cánh quân bộ trên núi Tràng Kênh đánh hất đám quân của Phàn Tiếp xuống sông. Viên gia tướng đã tả xung hữu đột, máu giặc ướt đẫm cả người, lao vào địch cứ như chỗ không người, như thể để trả thù cho người bạn voi đã hy sinh trên đường ra trận. Phàn Tiếp khiếp sợ đã bỏ lính, để nguyên cả tên găm trên người nhảy xuống sông chạy trốn nhưng rồi vẫn bị quân Trần dùng câu liêm móc lên, bắt sống.
Dã Tượng là bậc gia tướng chẳng những giỏi về chiến đấu, mà còn biết đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, xem nhẹ bổng lộc triều đình phe phái ban cho. Ông và Yết Kiêu đã cương quyết vì nước mà cho rằng chủ Tướng Trần Quốc Tuấn nên đặt lợi ích dân tộc Việt lên trên thù riêng vụn vặt. Chính vì sự khẳng khái đó, Ông đã dược Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xem như bậc đại trượng phu, và dân chúng tôn thờ.
Đền thờ Ông hiện ở Đình Câu Dương, làng Câu Dương, huyện Thái Thạnh, tỉnh Thái Bình.
Nghĩa Xuyên tướng quân
Nguyễn Chế Nghĩa sinh năm 1265 tại Cối Xuyên (còn gọi Hội Xuyên, nay là thị trấn Gia Lộc). Từ nhỏ ông đã nổi tiếng văn võ toàn tài, thông thạo võ nghệ, đặc biệt là đánh gậy. Năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai, Nguyễn Chế Nghĩa 17 tuổi đến dinh của Trần Hưng Đạo xin đầu quân. Hưng Đạo thử tài thấy Nguyễn Chế Nghĩa bắn cung giỏi phong là "thần tiễn" và khen: “Người này chẳng kém gì Phạm Ngũ Lão, ta lại được thêm một tướng tài”. Ông được Hưng Đạo Vương sai đem dân binh của Lộ Hồng đi chặn giặc ở Nội Bàng, Vạn Kiếp, làm cho chúng phải tiến quân chậm chạp.
Năm 19 tuổi, Nguyễn Chế Nghĩa đeo ấn tiên phong cùng tướng Phạm Ngũ Lão đem 3.000 quân lên Lạng Sơn lập trại cản địch. Trận đầu ông cầm quân đánh lui các tướng giặc là Trịnh Bằng Phi và Áo Lỗ Xích. Nguyễn Chế Nghĩa xông vào quân giặc như vào chốn không người khiến chúng khiếp sợ gọi ông là thần tướng, được nhà vua phong làm Khống bắc tướng quân. Khi vua Trần cho triều đình và nhân dân rút khỏi kinh thành, Nguyễn Chế Nghĩa được cử giữ Nội Bàng để chống giặc, bảo vệ đại bản doanh Vạn Kiếp. Sau đó Nguyễn Chế Nghĩa được giao giữ mặt trận từ Kiêu Kỵ (Gia Lâm) đến đê Cơ Xá (Hải Dương). Ông chỉ huy trận phục kích giặc ở cánh đồng Kiêu Kỵ, giết 300 tên giặc. Khi quân ta chuẩn bị tổng phản công, Nguyễn Chế Nghĩa được lệnh của Quốc công tiết chế phối hợp với các cánh quân tiêu diệt địch ở ngoại thành Thăng Long và phục kích giặc trên sông Thiên Đức (sông Đuống) diệt hàng nghìn tên.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ ba (1287 - 1288), Hưng Đạo Vương phong cho Nguyễn Chế Nghĩa làm chánh tướng tiên phong đóng đồn ở Yên Hưng (Quảng Ninh). Khi biết Thoát Hoan chạy theo đường núi, ông cùng Phạm Ngũ Lão mang quân chặn giặc ở Vạn Kiếp, chém chết tướng giặc là Trương Quân ở Nội Bàng.
Giặc tan, Nguyễn Chế Nghĩa được vua Trần phong chức Đại tướng quân, cử đi trấn ải ở Lạng Sơn 6 năm. Sau ông được nhà vua triệu về triều ban tước Nghĩa Xuyên công và cử đi sứ Nguyên ba lần, được nhà vua gả công chúa Nguyệt Hoa (đây là điều hiếm gặp vào thời nhà Trần).
Nguyễn Chế Nghĩa làm quan trải bốn triều vua. Đến cuối đời Trần Minh Tông, triều đình nhiễu nhương, Nguyễn Chế Nghĩa khuyên can không được bèn từ quan về ở đất Cối Xuyên. Tại đây ông giúp dân mở mang nghề nông, mở chợ, mở lò dạy võ cho thanh niên.
Khi vua Trần Hiến Tông mất, Trần Dụ Tông lên ngôi (1341 - 1369) liền trả thù vì ông phản đối việc lên ngôi của Dụ Tông. Dụ Tông đã sai bọn võ sĩ phục kích chém chết ông ở quán Ninh Kiều, Kiêu Kỵ (Gia Lâm). Nhưng với công lao hiển hách của ông, triều đình vẫn cử Bộ Lễ về tổ chức tang lễ theo nghi thức vương giả và phong ông là An Nghĩa đại vương. Sau khi ông mất, quê hương Cối Xuyên và 84 địa phương nơi ông từng đóng quân lập miếu thờ phụng. Trong quyển "Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam" của Hà Văn Thơ và Trần Hồng Đức (phát hành năm 2001) phần ghi những nhân vật lịch sử nổi tiếng triều Trần gồm 12 người, trong đó Nguyễn Chế Nghĩa được xếp trên Lê Văn Hưu và Chu Văn An.
Lịch sử đã lùi xa song với những chiến công oanh liệt với 31 đạo sắc phong trong 300 năm liên tục (triều Lê 21 đạo, triều Tây Sơn 2 đạo, triều Nguyễn 8 đạo) cùng nhiều di sản liên quan đến cuộc đời ông, tướng quân Nguyễn Chế Nghĩa đã trở thành niềm tự hào của quê hương Gia Lộc. Ngày nay tên ông được đặt cho đường phố ở TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và Hải Dương.
Hùng Thắng tướng quân
Vi Hùng Thắng là hậu duệ đời thứ 6 của cụ tổ họ Vi tại làng Vai, xã Kim Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Thân phụ ông là cụ Phúc Tính và thân mẫu là cụ Từ Duyên. Từ nhỏ, ông đã bộc lộ tư chất thông minh, sáng dạ. Lớn lên thì được nhiều người vị nể nên Vi Hùng Thắng đã quy tụ nhiều trai đinh trong vùng say mê tập luyện võ nghệ, sẵn sàng gìn giữ bản làng.
Khi giặc Nguyên Mông lại một lần nữa xâm lược nước ta vào năm 1285, quân dân nhà Trần nhất tề đứng dậy đồng tâm đánh giặc. Vi Hùng Thắng được vua tin dùng, giao nhiệm vụ làm Tướng dân binh của cả một vùng rộng lớn Sơn – Lục. Dân binh của ông có hàng vạn tay kiếm, tay cung dũng mãnh, phối hợp chặt chẽ với quân đội triều đình… từng đánh hàng chục trận ác liệt, cản bước tiến của giặc khi chúng từ cửa khẩu Chi Ma vào nước ta.
Đến cuối tháng Giêng năm 1285, Thoát Hoan đem quân tràn vào bờ cõi và quân dân ta đã đánh đuổi giặc tại cửa khẩu Khả Li (Xa Lý). Tại đây, hai tướng nhà Trần là Đỗ Hưng và Đỗ Vũ tử trận. Được đà lấn tới, quân giặc tiếp tục tràn qua vùng biển Động, phòng tuyến của ta càng thêm lung lay khi tướng Trần Sầm hi sinh. Lúc này, biết Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và các quân sĩ đang ở đất Nội Bàng, chúng đã bày binh bố trận vừa dụ hàng vừa bao vây khiên ta gặp không ít khó khăn, tướng Đoàn Thại đã hy sinh. Trước thế trận ngày một yếu, Vi Hùng Thắng đã chỉ huy đạo quân phối hợp đánh chặn, tạo điều kiện để Trần Quốc Tuấn thoát khỏi sự truy sát của giặc, rút xuống thuyền xuôi theo bờ sông Lục.
Sau đó, vào trận đánh Nguyên – Mông lần thứ 3, Hùng Thắng tướng quân tử trận anh dũng tại trong trận Tân Dã vào 20-2-1288.
Thi hài ông và các tiểu tướng hi sinh tại trận Tân Dã được nhân dân địa phương chôn cất tại nơi hi sinh. Sau đó, nhân dân đã lập đền thờ tưởng nhớ công ơn Hùng Thắng tướng quân cũng tại vị trí đó, lấy tên đền Khánh Vân. Đền còn có tên thường gọi là đền Quan Quận do tướng Hùng Thắng được thiên triều phong sắc tước Quận Công.
Huyền Quang tướng quân
Đặng Huyền Quang sinh ngày 13 tháng 3 năm Giáp Thìn (1244), tại xã Vị Hoàng, Nam Định.
Ngài là con cụ Đặng Huyền Chung và cụ bà là Lê Thị Chinh, cả hai cụ đều là con quan, dòng dõi nhà thi lễ. Đặng Huyền Quang làm nghề dạy học và nghề làm thuốc, đời sống kinh tế đầy đủ, thường làm việc thiện, giúp đỡ người nghèo.
Đặng Huyền Quang người cao lớn, tướng mạo đẹp và thông minh, 17 tuổi thuộc hết sách binh thư, tài ba võ nghệ hơn người. Vào tuổi 40 gặp thời buổi giặc Nguyên Mông chuẩn bị đưa quân sang xâm lược nước ta lần thứ 2. Nghe tin vua Trần hạ chiếu, triệu tập nhân tài ra đánh giặc giữ nước, Đặng Huyền Quang chiêu mộ được 2 ngàn quân dẫn đến triều đình xin xung trận, được vua Trần Nhân Tông trọng thị. Võ nghệ tuyệt vời, Đặng Huyền Quang được phong chức Đô chỉ huy sứ tướng quân.
Tháng 12 năm 1284, vua Nguyên sai Thái tử Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang xâm lược nước ta lần thứ 2, cộng thêm 10 vạn quân của Toa Đô chỉ huy từ đất Chiêm Thành đánh ra Nghệ An, kẹp quân ta vào thế bị đánh cả hai đầu. Vua Nguyên cử tả tướng Lý Hằng, hữu tướng Lý Quán và các đại tướng Toa Đô, Ô Mã Nhi, Đường Ngột Đải, Phan Tiếp...cùng xung trận với Thoát Hoan.
Các vua Trần tổ chức hội nghị quân sự ở Bình Than, tổ chức hội nghị các bô lão trong cả nước ở điện Diên Hồng, sắc phong cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế chỉ huy toàn bộ quân dân Đại Việt kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông.
Dưới sự chỉ huy chiến lược tuyệt vời của Hưng Đạo Đại Vương, để tránh thế mạnh của địch, ban đầu ta tổ chức đánh cầm cự và bỏ kinh đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng, dùng chiến tranh du kích để tiêu hao sinh lực địch làm cho quận địch khốn khổ vì thiếu lương thực, chặn đường tiếp viện rồi mới tổ chức phản công địch ở mọi phía. Với chiến thắng lừng lẫy ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp...chỉ trong vòng nửa năm quân Nguyên bị đánh tơi bời phải rút chạy. Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán bị chém đầu tại trận, Thoát Hoan phải chui đầu vào ống đồng cho người khiêng chạy về nước thoát chết.
Trong cuộc chiến đấu này Đặng Huyền Quang được dẫn quân chặn đường thuỷ bộ ở các tỉnh Đông, Hồng Châu, Du Trí, Hải Dương, Đông Triều, Cập Hiền, Cập Thương, Thái Bình...Thắng giặc, Đặng Huyền Quang được các vua Trần thăng tướng quân Thái uý.
Đặng Huyền Quang mất ngày 10 tháng 10 năm Ất Dậu (1285) tại Dụ Tái, Cập Hiền, Thanh Hà, Hải Dương.
Văn thỉnh lục bộ đức ông
Thần kim cung cờ bãi đảo
Lục bộ đức ông lai đáo đàn trung
Thống lĩnh gia quân trần triều lương tướng
Giáng uy linh tại chốn điện tòa
Dương gian một thủa phong ba
Theo chân vũ đế xuống mà giúp dân
Đời trần thị oai linh lừng lẫy
Theo vương gia thát sát giặc thù
Trên là nợ nước ơn vua
Dưới là xã tắc cũng là tình thâm
Phụ vương gia khác đòn thần chức
Khải văn mời ốp đáo đồng nhân
" Đoạn văn trên là văn dùng chung cho lục bộ đức ông "
Thỉnh mời hùng Thắng đức ông
Vốn sinh tại đất Lục Bình Bắc Giang
Thổ mãn nùng quanh vùng phục bái
Nức gần xa tụ tập theo hầu
Song thân tự phúc tinh là hiệu
Thủa trẻ trai nức tiếng siêu quần
Tài võ nghệ nổi danh hào kiệt
Tụ dân binh trấn ải chi ma
Theo vào phò tá vương gia
Trải qua trăm trận xông pha tuyến đầu
Chém tướng giặc như hái rau chặt chuối
Đuổi thoát hoan phải rúc ống đồng
Quân thát nghe ôm đầu rụt cổ
Vua gia tặng quận công tước vị
Khánh vân đất tân giã quên Thân
Vì nước non chiến đến cùng tử trận
Hi sinh lại được anh linh muôn đời
Dân tôn phụng lập đền hương khói
Nay ông về tốc đáp đàn duyên
khuông phù đệ tử thiên xuân thọ trường.
Thỉnh mời khống bắc tướng quân
nghĩa xuyên lục bộ Thánh ông đáo đàn
Hải dương về chốn hội xuyên
Là nơi tụ nghĩa là nơi sinh thành
Ân vương thượng ban danh thần tiễn
Chốn trận tiền sát tướng như không
Võ công vào bậc siêu phàm
Một người ngựa xông trong trại giặc
Triệu tử long của đất nam minh
Tiên phong thần tướng lĩnh quân
Ba nghìn tướng sỹ trận tiền sông pha
Trịnh phi bằng Ao lỗ xích
Tiên phong tả hữu của Thoát Hoan
Gặp ông mất mật khóc than
Giặc thua tan tác chạy càng thêm nhanh
Giặc tan lại lĩnh sứ Thần
Ba phen bốn bận vi hành bang giao
Vua yêu gả công chúa nguyệt hoa
Kết duyên tần tấn ấy là đặc ân
Khi triều nội nhiêu. Nhương loạn xạ
Ông xin về ở ẩn cối xuyên
Nhưng mà số phận không yên
Gian thần dòm ngó đến miền quê hương
Phục binh trảm thủ giữa đường
Nay ông thác xuống tiếng oan ở đời
Lăng tẩm đó muôn đời hương hỏa
Đất Hải Dương gia lộc trấn kia
Vì tài đức muôn dân tôn phụng
Người thuộc cửa kiếp bạc thượng từ
Sắc phong An Nghĩa đại vương
Thỉnh ông lai đáo đàn trung
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.
Chỉ huy sứ chánh tướng con mời
Thỉnh ông lục bộ danh là huyền du
Vốn xưa dân quê nơi nam định
Xã mang danh tên cũ vị hoàng
Gia phong nề nếp thuộc hàng nho gia
Thủa còn trẻ văn thao võ lược
Vai tựa hùm tay gấu mặt long
Mộ dân binh phò tá vương gia
Thát sát săm trên cánh tay ngà
Trải trăm trận trước cờ đức Thánh
Chăm trung quân nhưng chiến công hiển hách
Tướng giặc đầu trên chục lập công
Văn thao võ lược oai hùng
Nhưng trời xanh lại không chiều lòng người tài đức
Tuổi bốn mốt đã dời dương thế
Cả tam quân nhỏ lệ khóc than
Ngày nay lập miếu bên lăng
Tại Thanh hà Hải Dương tỉnh nọ
Đệ tử con dâng bài văn tấu
Xin đức ông giáng hạ đàn duyên
Khuông phù đệ tử an ninh thọ trường
Thủy quân tổ tộc dâng văn
Thỉnh mời nguyên soái thủy quân đáo đàn
Vốn là tổ dòng nhân thủy tộc
Ngậm mao ngưu thần thủy đúc tài
Giáng sinh vào hàn gia họ phạm
Thuộc miền làng quát đất là Hải Dương
Dòng sông đáy là nơi ông sống
Nước với ông như đất với người
Theo vào phò tá vương gia
Gia thần danh cải ban là yết kiêu
Trận Bạch Đằng trường giang cuộn sóng
Trận hải ninh lẫn trận lục nam
Đục thuyền phá giặc kinh hoàng
Dù cho giặc bắt cũng rễ ràng thoát thân
Sách sử ghi còn lưu huyền thoại
Bãi tân kia chờ chủ không rời
Yết Kiêu chưa thấy Đại Vương thì ông nhất định sẽ không dời thuyền.
Hưng Đạo vương gia ban cho bài phú
" Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh.
Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim thường thôi."
Nay sử xanh vãn mãi còn ghi
Yết kiêu nguyên soái thủy quân đại thần
Nay con bái đảo muôn lần
Khuông phù đệ tử thiên xuân thọ trường.
Thái bình thái thạch thôn quê
Câu Dương chốn ấy đi về anh linh
Tượng quân là binh chủ lực
Con Thỉnh mời Dã Tượng Đại vương
Trần thị xưa chống quân thát sát
Đội đặc binh bạch tượng ra uy
Theo ông chiến trận tung hoành
Đánh tan thát sát chiều đình phong công
Sắc phong tiết chế binh nhung
Trung thần là bậc anh hùng vì dân
Sống một đời anh linh hiển hách
Quốc sử ghi vạn kiếp lưu danh
Sống là tôi thác lại là thần
Thượng từ kiếp bạc phục Thần Thánh vương
Từ ngàn xanh tới nơi Thành thị
Tượng binh hùng thủy lục giao tranh
Khắp nơi khắp chốn vang danh
Khuông phù đệ tự thiên xuân thọ trường.
Đức Thánh ông có vị trung lương
Luôn theo hộ vệ bên mình chủ quân
Nay văn con thỉnh con mời
Nhà Trần Vệ tướng Cao Mang ngự đồng
Vốn sinh đất nam thành chốn đó
Mỹ lộc huyện làng ở Đông Mai
Trời sanh tưởng pháp khác người
Ngũ quan phúc hậu như là khúc tinh
Mặt như nhồi phấn trời sanh thần lực
Nắt ngời sao soi tỏ bóng đêm
Vai tựa gấu tay dài như vượn
Nưng hùm beo chân của tượng long
Thực hay thiên tướng giáng trần
Đầu vào dưới trướng Thánh ông giúp đời .
Thủa thát sát xua quân xâm chiếm
Lúc thắng lui là kế binh gia
Lấy thân làm kế thoát ra
Dụ giặc lâm kế ấy là mưu cao
Nhưng nguy hiểm đâu đâu cũng có
Thân phạm trận là kế hiểm nghèo
Không phải dũng tướng mang theo
Vậy thì chắc chắn mạng treo mất rồi
Dụ địch cũng cần người gan dạ
Giỏi võ công lại giỏi quyền mưu
Khi lâm trận muôn vàn biến hóa
Bản lĩnh kia mới thực đại tài
Văn nay con thỉnh con mời
Xin ông hộ đỡ gia trung thọ trường.
Dâng sớ "
A tấu sớ Thiên Đình ông lên tấu sớ Thiên Đình
Nam Tào Bắc Đẩu Chúa biên rành rành Chúa cho đôi chữ trường sinh
Chữ phú chữ quý, khang ninh thọ trường năm cờ sai trấn năm phương
" Khai quang "
Có lệnh truyền ra Thánh Ông có lệnh truyền ra
Các quan thoải bộ cùng là chư dinh nam ninh non phạt nam thành
Đánh đông dẹp bắc tung hoành mọi nơi đông thời cửa thiếu cửa đoài .
Nghự lên đồng tử cứu này nhân gian cứu đâu thời đó được an
Cấp sai binh tướng áp lai tĩnh đường A
Se khai quang dung nhan Thập kỳ diệu
Quang minh chiếu Thập phương
Ngã tích tang cúng dàng
Kim phụng hoàng thân cận
Phật Thánh chúa thiên trung vương
Ca lăng tần già Thanh từ bi mẫn chúng sinh
Cố nghã kim đỉnh lễ...
A án Nhật nguyệt quang minh
Cân đai mũ áo ra uy khám đàn
Phép ông đôi má thu phình
Ra tay lấy huyết quyết linh thần phù
Chỉ ngũ sắc trói loài tà quỷ
Trận ngũ phương lưới lưới bủa vây
Doi dâu cùng cả doi mây
Cờ trần ông quấn tróc loài tà tinh.
Tổng hợp