Đức Thánh cả Hưng vũ Đại vương Trần Quốc Nghiễn là một trong 4 vị Vương tử của Đức Thánh Trần. Hãy cùng Tamlinh.org xem lại bản Hát văn hầu Đức Thánh cả Hưng vũ Đại vương và lịch sử về vị tướng tài của đất Việt ta.
Đền thờ Đức Thánh cả Hưng vũ Đại vương Trần Quốc Nghiễn tại Quảng Ninh
Đức Thánh Cả Hưng Vũ Đại Vương là ai?
Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn là con trai cả của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, cháu ruột vua Trần Thái Tông. Năm 1282, ông kết hôn với công chúa Thiên Thụy, trở thành Phò mã của vua Trần Thánh Tông. Ông là vị tướng tài giỏi, văn võ song toàn, một người con tận hiếu, bề tôi tận trung.
Theo Đại Việt Sử ký toàn thư: Một hôm Trần Quốc Tuấn vờ hỏi con là Hưng Vũ Vương: “Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?” Trần Quốc Nghiễn thưa: “Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ”. Trần Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm ông đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. Quốc Tảng thưa: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ” (với ý đồng thuận cho cha cướp ngôi vua, theo di chúc miệng của ông nội - An Sinh Vương Trần Liễu, người đã “nổi loạn” để giành ngôi vua nhưng bất thành), Trần Quốc Tuấn rút gươm kể tội: “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra” và định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Trần Quốc Tuấn mới tha. Sau đó, ông dặn con trai cả: “Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, Trần Quốc Nghiễn cùng với cha Trần Quốc Tuấn và các danh tướng nhà Trần lập nhiều chiến công vang dội. Trong dịp định công dẹp giặc Nguyên vào tháng 4 năm Kỷ Sửu (1289), triều đình tiến phong Hưng Đạo Vương làm Đại Vương, Hưng Vũ Vương làm Khai Quốc công, Hưng Nhượng Vương làm Tiết độ sứ. Sau chiến thắng giặc Nguyên, Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn về xã Chung Mỹ, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là huyện Thuỷ Nguyên, TP Hải Phòng) chiêu tập lưu dân làm ăn yên ổn. Khi ông mất được lập đình thờ phụng là Thành hoàng.
Ngoài ra, tại Quảng Ninh cũng có một ngôi đền nhỏ thờ đức ông Ông Trần Quốc Nghiễn. Theo sử sách ghi lại, trong chiến công chung của quân dân nhà Trần, đặc biệt là trận chiến trên sông Bạch Đằng lần thứ 3 năm 1288 không thể thiếu công lao của ông. Để ghi nhớ công lao dẹp giặc tại vùng Đông Bắc Tổ quốc, nhân dân đã lập một ngôi đền nhỏ dựng bên núi Bài Thơ.
Đền Đức Ông Trần Quốc Nghiễn được xây dựng tại đây vào khoảng cuối thế kỷ XIII, đền trải qua nhiều lần trùng tu, theo văn bia trùng tu tại Đền, thì vào năm Quý Sửu (1913) các chủ thuyền thường hay qua lại đây phục dựng lại đền để tưởng nhớ công lao của ông. Đền có tên chữ là Phúc Linh từ (Đền Phúc Linh) nay thuộc phường Hồng Gai, TP Hạ Long. Đây là một ngôi đền nhỏ, có vị trí đẹp, trên nền đất cao, mặt hướng ra Vịnh Hạ Long, có kiến trúc kiểu chữ đinh gồm 3 gian bái đường và 1 gian hậu cung. Trong đền có đầy đủ nghi trượng, bát bửu, các đồ tế khí... Ngày nay, đền nằm trong Cụm di tích núi Bài Thơ - chùa Long Tiên được Bộ Văn hoá - Thông tin và Thể thao xếp hạng Di tích lịch sử, danh thắng cấp quốc gia năm 1992.
Văn hầu Đức Thánh Cả Hưng Vũ Đại Vương
Thủa ngô binh xâm lăng xã tắc
Theo phụ vương thống lĩnh tam quân
Trấn Hạ long là nơi hiểm địa
Chặn thát quân trận mạc tung hoành
Đức Thánh cả Oai hùng võ liệt
Khai Quốc công thượng đẳng tước vương
Trên tướng sỹ quân gia đều phục
Lục bộ trần triều tuân phụng vương ông
Võ lược văn Thao xuất xung trận mạc
quyền trí kế mưu nhất bậc anh tài
Công hộ quốc ở sau vương phụ
Sắc ban danh Hưng Vũ Đại Vương
Lưu danh Thánh cả Trần triều
Hoàng đế mến ban hôn công chúa
Phò mã gia kiêm tước Vũ Vương
Trải trăm trận ngô binh khiếp vía
Khi giặc tan phò trợ quân vương
An thiên hạ cơm no áo ấm .
" Dâng sớ "
A tấu sớ Thiên Đình ông lên tấu sớ Thiên Đình
Nam Tào Bắc Đẩu Chúa biên rành rành Chúa cho đôi chữ trường sinh
Chữ phú chữ quý, khang ninh thọ trường năm cờ sai trấn năm phương
" Khai quang "
Có lệnh truyền ra Thánh Ông có lệnh truyền ra
Các quan thoải bộ cùng là chư dinh nam ninh non phạt nam thành
Đánh đông dẹp bắc tung hoành mọi nơi đông thời cửa thiếu cửa đoài .
Ngự lên đồng tử cứu này nhân gian cứu đâu thời đó được an
Cấp sai binh tướng áp lai tĩnh đường A
Se khai quang dung nhan Thập kỳ diệu
Quang minh chiếu Thập phương
Ngã tích tang cúng dàng
Kim phụng hoàng thân cận
Phật Thánh chúa thiên trung vương
Ca lăng tần già Thanh từ bi mẫn chúng sinh
Cố nghã kim đỉnh lễ...
A án Nhật nguyệt quang minh
Tan phong vũ lui miền Trấn địa
Đất cũ kia thủ vững ơn vua
Tụ dân tán Hải Dương lập ấp
Chiến tranh qua hưởng phúc thái bình .
Tài an bang tế thế độ dân
Trải trăm chiến trận tung hoành
Giặc nguyên nghe tiếng sợ danh Trần triều
Trong tam cõi nức danh trung liệt
Sống anh Hùng thác lại anh linh
Muôn dân tôn phụng Thánh Ân.
Cung Văn con khải Thánh vương ngự về Giáng đàn trung uy hùng hiển hiện
Tróc tà tinh cứu trợ dân ta
Cân đai mũ mã ra uy khám đàn
Phép ông đôi má thu phình
Cổ lên khăn ấn xiên lình ra oai
Vồ đập khảo chân đi than lửa
Chảo dầu sôi đợi sẵn yêu ma
Tay ấn quyết ra uy dấu mặn
Thần phù ra cứu độ dân oan
Vương Sai lục bộ đáo lai đàn sở
Tróc tà tinh lưới bổ ghê thay
Thu quân tà khí chớ chầy mau mau
Này oan gia ông bầy cho giải
Kết nghiệp kia ông giảng cho tan
Kiếp người nhiều lỗi dây oan nghiệt
Tu ngay đi nghiệp mới cắt song
Oán kết kia bao đời tích tụ
Giải kết thôi không khổ đời sau
Đàn này ông lệnh mau mau
Oan oan tương báo ngày nào dứt đây
Còn ngoan cố bao giờ mới dứt
Cậy phép tà làm loạn nhân sinh
Phép vương ông trị tội gia hình .
Ân Thánh đức ông đây ban phép
Độ dân ta gây dựng giống nòi
Phu Thê cầm sắt không con
Xin ông sẽ được vuông tròn nghe chưa
Rồi ấu sinh lại hay phải vía
dạ đề đêm khóc thét bòn mình .
Rồi thì trẻ ốm héo mòn
Rồi thì sản phụ hậu bòn huyết băng.
Nhà đất dữ ông đây ban phép
Lưỡi cầy ban trấn trạch nghe không
Tiền duyên dâm quỷ dâm vong
Thần phù xin cửa đức ông
Tà ma quỷ quái đừng hòng phá dân
....
Kíp mau mau mời ông lai giáng
lễ vật kia sửa soạn bầy lên
Thành tâm bái nguyện đến ông
Ngự đồng ban ấn ơn trên gia trì
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường