OM AH RA PA TSA NA DHI
Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ tát là vị Phật tượng trưng cho trí tuệ. Trong Phật pháp, Ngài là vị Phật với sự hiểu biết với trí tuệ viên mãn. Câu chân ngôn này là tượng trưng cả thân khẩu ý giác ngộ của Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ tát. Tất cả các ngành nghề chúng ta đều cần trí tuệ. Bởi có trí tuệ chúng ta mới có thể hướng cuộc đời mình đi đúng lối, có trí tuệ chúng ta mới có thể sống cuộc đời hạnh phúc và bình an.
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Trên tay phải của Ngài, dương cao lên khỏi đầu là một lưỡi gươm đang bốc lửa -một biểu tượng đặc thù của Bồ Tát Văn Thù để phân biệt với các vị Bồ Tát khác
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là ai?
Văn-thù-sư-lợi (Tiếng Phạn: Mañjuśrī) là tên dịch theo âm, thường được gọi tắt là Văn-thù, dịch nghĩa là Diệu Đức hoặc Diệu Cát Tường. Ngài là một vị Bồ Tát tượng trưng cho trí huệ (Pràjnà) hay kinh nghiệm giác ngộ, đạt được bằng phương tiện tri thức.
Tranh tượng trình bày Văn-thù với lưỡi kiếm và kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Tay phải cầm kiếm là tượng trưng cho trí tuệ sắc bén-chặt đứt tất cả những xiềng xích trói buộc của vô minh phiền não đã cột chặt con người vào những khổ đau và bất hạnh của vòng sinh tử luân hồi bất tận, đưa con người đến trí tuệ viên mãn.
Tay trái của Bồ Tát đang cầm giữ cuốn kinh Bát Nhã- trong tư thế như đang ôm ấp vào giữa trái tim mình suối nguồn và biểu trưng của tỉnh thức, giác ngộ.
Trong Phật giáo Tây Tạng, các vị luận sư xuất sắc như Tsongkhapa, Atisha,.... thường được xem là hiện thân của Đức Văn-thù.
Thủa xưa, Ngài là con thứ ba của vua Vô Tránh Nhiệm có tên là Thái tử Vương Chúng. Ngài cúng dường Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sanh nên được hiệu là Văn Thù Sư Lợi. Sau khi Phật Bảo Tạng thọ ký cho Ngài phải trải vô lượng hằng hà sa số kiếp về sau, thì Ngài sẽ thành Phật ở thế giới thanh tịnh Vô Cấu Bảo Chi thuộc về bên phương Nam, hiệu là Phật Văn Thù.
25 ĐẠI NGUYỆN VĨ ĐẠI CỦA ĐỨC VĂN THÙ
Vương Chúng Thái Tử nghe quan Đại thần khuyên như vậy, thì liền chấp tay mà thưa với Phật rằng:
1. “Bạch Đức Thế Tôn! Công đức tôi cúng dường Phật Tăng và những hạnh nghiệp tu tập thanh tịnh của tôi đó, nay xin hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ Đề, nguyện trải hằng sa kiếp tu hạnh Bồ tát, đặng hóa độ chúng sanh, chớ tôi chẳng vì lợi ích một mình mà cầu mau chứng đạo quả.
2. Tôi nguyện hóa độ hết thảy mọi loài chúng sanh ở các thế giới trong mười phương đều phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giữ gì tâm Bồ đề cho bền chắc, và khuyến hóa theo môn Lục độ.
3. Tôi nguyện giáo hóa vô số chúng sanh ở các thế giới đều đặng thành Phật thuyết pháp trước tôi, và trong khi thuyết pháp, làm sao cho tôi đều xem thấy tất cả.
4. Tôi nguyện trong khi tu đạo Bồ tát đạo, làm đặng vô lượng việc Phật, và sanh ra đời nào cũng tu theo đạo ấy cả.
5. Bao nhiêu chúng sanh của tôi dạy dỗ đều đặng thanh tịnh, như các người đã có tu phép thiền định ở cõi Phạm Thiên, tâm ý không còn điên đảo. Nếu đang các kẻ chúng sanh như vậy sanh về cõi tôi, thì khi ấy tôi mới thành đạo.
6. Tôi nguyện đem các món hạnh nguyện mà cầu đặng cõi Phật trang nghiêm và nguyên hết thảy các cõi Phật đều hiệp chung lại thành một thế giới của tôi.
Đường giới hạn xung quanh trong cõi ấy đều dùng những chất: vàng, bạc, ngọc lưu li, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não, mà xây đắp cho cao lên đến cõi Phạm Thiên, còn mặt đất thì toàn là ngọc lưu ly tất cả.
Trong cõi ấy không có các món đất cát, buị bặm, chông gai, dơ dáy, và không có những sự cảm xúc, thô ác, và xấu xa, cũng không có những người đàn bà và tên hiệu của người đàn bà.
Hết thảy chúng sanh đều hóa sanh, chớ không phải bào thai trong bụng mẹ như các cõi khác, và hằng tu tập các pháp thiền định, vui đẹp tự nhiên, chớ không cần phải ăn uống những đồ vật chất.
7. Trong cõi tôi không có người Tiểu thừa, Thanh văn và Duyên giác. Thảy đều là các bậc Bồ tát, căn tánh cao thượng, tâm trí sáng suốt, người nào cũng đã xa lìa mọi sự tham lam, hờn giận, ngu si, và đã tu đặng các môn phạm hạnh cả.
8. Trong khi chúng sanh sanh về cõi tôi, thì tự nhiên đủ tướng mạo Tỳ kheu, đều có cạo tóc và đắp y một cách chỉnh đốn cả.
9. Chúng sanh trong cõi tôi muốn ăn, thì tự nhiên có bình bát thất bảo cầm ở nơi tay và đủ các món đồ ăn ngon đẹp đầy bát. Khi ấy lại nghĩ rằng: Chúng ta chớ nên dùng những đồ này, nguyện đem bố thí; trước hết dâng cúng cho các Đức Phật, Bồ tát, Thanh văn, và Duyên giác, sau nữa thì chúng sanh nghèo hèn và các loài Ngạ quỉ đói khát đều dùng no đủ. Còn phần chúng đẹp, tức là món ăn.
10. Mọi người suy nghĩ như vậy, liền đặng pháp Tam muội, gọi là “Bất khả tư nghị hạnh”. Có sức thần thông, dạo đi tự tại, không có sự gì ngăn ngại tất cả . Độ trong giây phút, mọi người được dạo khắp các thế giới mà cúng dường Phật, bố thí và diễn thuyết các pháp cho chúng sanh nghe rồi trở về nước thì vừa đúng bữa ăn.
11. Tôi nguyện trong thế giới của tôi không có tám món chướng nạn và các sự khổ não, cũng không có những người phá hư giới luật.
12. Tôi nguyện trong thế giới ấy có nhiều món châu báu rất lạ lùng và không cần gì phải dùng đến ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Các vì Bồ tát tự nhiên xung quanh thân thể có hào quang sáng chói, soi khắp các nơi, thường chiếu luôn không có ngày êm, chỉ xem lúc nào bông nở thì cho là ban ngày, lúc nào bong xếp lại cho là ban đêm mà thôi. Còn khí hậu thường điều hòa, không nóng quá và không lạnh quá.
13. Nếu có vị Bồ tát nào bổ xứ làm Phật các cõi khác, thì trước hết ở nơi cõi tôi, rồi đến cung trời Đâu suất, sau mới giáng sanh đến cõi ấy.
14. Tôi nguyện hóa độ chúng sanh đều thành Phật hết rồi, tôi mới hiện lên hư không mà nhập diệt.
15. Trong lúc tôi nhập diệt thì có nhiều món âm nhạc tự nhiên kêu vang đủ pháp mầu nhiệm và các vị Bồ tát nghe đều tỏ đặng các lẽ huyền diệu.
16. Thưa Đức Thế Tôn ! Tôi nguyện khi làm Bồ tát mà dạo trong các cõi Phật, xem thấy những thức trang nghiêm những châu báu, những hình trạng, những xứ sở, và những hạnh nguyện của Chư Phật, thì tôi đều cầu đặng thành tựu tất cả.
17. Tôi nguyện các vị Đẳng giác Bồ tát đều ở trong cõi tôi mà đợi đến thời kỳ sẽ bổ xứ làm Phật, chớ không thọ sanh các cõi nào khác nữa. Nếu có vị nào muốn đến cõi khác thành Phật mà hóa độ chúng sanh, thì tùy theo ý nguyện.
19. Thưa Đức Thế Tôn ! Trong khi tôi tu đạo Bồ tát, nguyện đặng cõi Phật rất tốt đẹp nhiệm mầu. Các vị Bồ tát phát Bồ đề tâm , tu Bồ tát hạnh, mà đặng bự bổ xứ thành Phật, đều sanh về trong cõi tôi cả .
20. Thưa Đức Thế Tôn ! Tôi nguyện đặng như vậy , tôi mới thành Phật , và nguyện ngồi khoanh chân trên tọa Kim cang ở dưới cây Bồ đề , trong giây lát chứng thành chánh giác.
21. Khi thành Phật rồi , tôi biến hóa Phật và các vị Bồ tát , nhiều như số cát sông Hằng , đặng dạo các thế giới mà hóa độ chúng sanh , giảng dạy các phép nhiệm mầu và khiến cho hết thảy nghe pháp rồi đều phát Bồ đề tâm , cho đến khi thành đạo cũng không đổi dời tâm trí .
22. Khi tôi thành Phật rồi, chúng sanh ở trong các cõi nếu thấy đặng tướng tốt của tôi , hằng in nhớ trong tâm luôn luôn , cho đến khi thành đạo cũng không quên .
23. Tôi nguyện chúng sanh trong cõi tôi , người nào cũng đủ căn thân toàn vẹn , không hư thiếu món gì. Nếu các vị Bồ tát muốn xem thấy tướng tôi , hoặc nằm , hoặc ngồi , hoặc đứng , hoặc đi, thì đều thấy đặng cả . Khi thấy rồi , liền phát Bồ đề tâm , và lại trong lúc thấy tôi , những sự hoài nghi về đạo pháp tự nhiên hiểu biết đặng cả , không cần phải đợi tôi giải quyết nữa .
24. Tôi nguyện khi tôi thành Phật rồi , thì tôi đặng thọ mạng vô cùng vô tận , không kể xiết . Còn các vị Bồ tát trong cõi tôi cũng đặng sống lâu như vậy .
25. Trong lúc tôi thành Phật , có vô số Bồ tát đủ tướng mạo Tỳ Khưu, người nào cũng cạo đầu , đắp y , cho đến khi nhập Niết bàn thì những tóc không khi nào để mọc dài , và những y cũng không khi nào đổi bận như đồ người thế tục .
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe mấy lời nguyện rồi , liền thọ ký cho Vương Chúng Thái Tử rằng : “Hay thay ! Hay thay ! Ngươi là người Đại Trượng phu , trí huệ sáng suốt , tỏ biết mọi lẽ, phát nguyện rất lớn và rất khó khăn, làm những việc công đức rất rộng sâu, không thể nghĩ bàn đặng . Chính ngươi là bực trí huệ nhiệm mầu , mới làm đặng mọi sự như vậy .
Bởi ngươi vì hết thảy chúng sanh mà phát thệ nguyện rất nặng lớn và cầu đặng cõi Phật rất trang nghiêm như thế , nên ta đặt hiệu ngươi là : Văn Thù Sư Lợi – Trải vô lượng hằng hà sa số kiếp về sau, ngươi sẽ thành Phật hiệu là : Phổ Hiền Như Lai ở Thế giới rất Đẹp đẽ , tên là Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Chỉ , thuộc về phương Nam .
Tất cả mọi sự trang nghiêm của ngươi ước ao thảy đều thỏa mãn.
Này Văn Thù Sư Lợi ! Từ rày sắp về sau, trải hằng sa kiếp , ngươi tu Bồ tát đạo , trồng các căn lành , và tâm trí thanh tịnh . Ngươi hằng vì chúng sanh mà giáo hóa cho chúng nó đều dẹp trừ được các món tâm bệnh; vậy nên chúng nó đều xưng ngươi là một ông thầy thuốc hay , có một món thuốc thần để chữa lành được bệnh phiền não .
Vương chúng Thái tử thưa rằng : “Bạch Đức Thế Tôn !
Nếu sự thệ nguyện của tôi đặng như lời ngài thọ ký đó , thì tôi xin cả thế giới đều vang đều vang động và các Đức Phật mười phương đều thọ ký cho tôi nữa”.
Vương Chúng Thái tử thưa rồi , đương cuối đầu lễ Phật , tự nhiên giữa hư không có các thứ tiếng âm nhạc vang rền diễn ra các pháp mầu nhiệm , và có các thứ tiếng âm nhạc vang rền diễn ra các pháp mầu nhiệm , và có các thứ bông tươi tốt thơm tho rải xuống như mưa .
Các vị Bồ tát ở các Thế giới khác xem thấy như vậy , liền hỏi các đức Phật rằng: “ Do nhân duyên gì mà có điềm lành như thế ?”
Các Đức Phật nói rằng: “ Nay Chư Phật ở mười phương điều thọ ký cho Văn Thù Sư Lợi Bồ tát sau sẽ thành Phật, nên hiện ra điềm lành ấy”.
Vương Chúng Thái Tử thấy vậy, lòng rất vui mừng, liền đảnh Phật , rồi ngồi nghe thuyết pháp .
Từ đó về sau , Thái tử mạng chung , bào thai ra các thân khác và đời khác , kiếp nào cũng giữ gìn bản thệ , quyết chí tu hành , học đạo Đại thừa , làm hạnh Bồ Tát , hóa độ chúng sanh đều thành Phật đạo , mà cầu cho thỏa mãn những sự cầu nguyện của mình.