Quan Lớn Tuần Tranh là ai? Sự tích Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh
Quan lớn Tuần Tranh hay còn là vị tôn quan thứ 5 (Quan đệ ngũ) trong Ngũ Vị Tôn Ông. Vậy quan lớn tuần tranh là ai?
+ Ngày 25/5: Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh ( đền Ninh Giang, đền Kì Cùng)
Nỗi oan da diết một vùng
Uy danh dũng mãnh Kỳ Cùng Lạng Sơn
Quan tuần chắc giáng nam sơn
Muôn dân ghi nhớ công ơn đời đời
Thiên binh thiên tướng nhà trời
Quyền ông cai quản nơi nơi thái hoà
Danh lam thắng tích một toà
Sông tranh còn đó mặn mà sầu thương
Buồn buồn tủi tủi vấn vương
Con về bái yết dâng hương quan tuần
Quan về bảo hộ muôn dân
Thao quân võ lược điều quân trừ tà
Quan ban phúc lộc đề đa
Già trẻ trai gái nhà nhà ấm êm
1. Quan lớn tuần tranh là ai?
Quan lớn Tuần tranh là ai? Ngài chính là con trai của Vua Cha Bát Hải Đồng Đình và cùng 4 người anh của mình trong hành Ngũ Vị Tôn Quan.
Ngài được Ngọc Hoàng Thượng Đế ban cho quyền phép cai quản địa binh, giải oan nghiệp về sớ chương cho trần gian.
Trăng soi sáng tỏ đồi thông
Quan về soi xét thanh đồng ra sao
Mà sao lắm chuyện tào lao
Miệng trần bóng Thánh rêu rao hại đời
Mượn bóng Ông Thánh nơi nơi
Lạt người lấy của đất trời nổi giông
Năm nay thanh lọc thải đồng
Soi tài cắt lộc, phàm trần có hay ?
Năm nay vận hạn lắm thay
Bệnh dịch, nghèo đói, càng ngày nặng thêm
Bởi nay trời đất chẳng êm
Giận người hám của, ngày đêm tội đầy
Trách sao cái nghiệp làm thầy
Dẫn người sai lối, nghiệp dầy chất cao
Trách ai cớ lại làm sao
Chưa ra mở phủ đã nào mượn uy
Giả danh lừa đảo thị phi
Làm lễ dân chúng, hỏi khi nào thành
Mà sao khắp chốn tung hoành
Gạ người làm lễ, tanh bành cả lên
Trời xanh kia đã chứng tên
Nhân quả muôn kiếp, bề trên chứng lòng
Sống sao đã đục chẳng trong
Cầu tài hám lợi tiền nong lộc tài
Nghiệp kia lại tiếp thêm dài
Đời này đời khác miệt mài gánh thêm
Bởi nay làm ác ngày đêm
Đời con đời cháu chẳng êm hận đời
Mà đâu nào phải do trời
Ăn mặn khát nước, suốt đời áy o
Quanh năm suốt tháng phải lo
Oan gia trái chủ hành cho suốt ngày
Bao giờ mới chịu đổi thay
Hay là phải trị tận tay mới thành
Thanh long đao đó tung hoành
Xưa kia giết giặc để giành nước Nam
Giờ đây dân chúng bình an
Phải biết báo hiếu, chứa chan lòng người
Mà sao trắng mắt con ngươi
Chỉ lo hám lợi, lại lười làm ăn
Thấy người túng thiếu khó khăn
Lấy cớ soi bói, rồi răn lễ làm
Tung thêm năm ba chuyện xàm
Người trần lo sợ miêm man xoay tiền
Mong là đúng cửa gặp Tiên
Cầu thần giúp đỡ được yên trong nhà
Ngờ đâu càng hại người ta
Người người oán hận, lòng tà phải mang
Năm nay Canh Tý đã sang
Lọc đồng, cắt lộc, rõ ràng không sai
Trị cho chẳng thiếu một ai
Ai làm nấy chịu, đôi vai chịu đòn
Khuyên ai tích đức cho tròn
Đúng đường đúng lối, mới còn lộc Thiên
Lộc kia Thánh dẫn con hiền
Đồng Quan bóng Thánh, mọi miền trợ nguy
Học điều nhân nghĩa từ bi
Ngày đêm tu học chẳng sân si đời
Trợ duyên tác phúc nơi nơi
Có tâm trời chứng, đất trời vang danh
Xứng con nhà Thánh tu hành
Kính trên nhường dưới mới thành đồng ngoan
Bao nhiêu cơ cực trái oan
Cơ hành gian khó khoan thai nên người
Con con cháu cháu vui cười
Gia đình sum họp vẹn mười khang ninh
Bản hát văn cổ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
2. Sự tích Quan Lớn Tuần Tranh
Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy đứng trong hàng năm của Ngũ Vị Tôn Ông, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).
Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.
Mỗi vị trong Ngũ Vị Tôn Quan đều gắn một sự tích riêng cho mình. Vậy quan lớn đệ ngũ Tuần Tranh có sự tích, lịch sử như thế nào thì kính mời quý độc giả cùng xem chi tiết sau đây:
1. Thần tích qua Ngọc Phả, Truyền thuyết
Có một số truyền thuyết về gốc tích của ông nhất là qua Các ngọc phả thần tích và các điển tích, các đền phủ của tín ngưỡng Tam-Tứ Phủ, đền thờ Ông cũng như qua các bản văn chầu. Một truyền thuyết tương đối phổ biến và qua thần tích và ngọc phả đền Đồng Bằng thờ Vua cha Bát Hải gốc tích của ông như sau.
Ông là con trai thứ năm trong một gia đình lái đò trên dòng sông Vĩnh, phủ Ninh Giang (nay thuộc Hải Dương) thời Hùng triều thập bát (Hùng Duệ vương). Tuổi tác đã cao mà vợ chồng ông lái đò chưa có người nối dõi. Một lần ông bà bắt được bào thai trong có một ổ trứng trắng liền mang về nhà. Trải 9 mùa trăng đi qua, vào một ngày trời đầy mưa giông, sấm giật, 9 quả trứng nứt vỏ, 9 con rắn ra đời, ngày tháng thoi đưa, lũ rắn cũng lớn dần lên.
Năm ấy, đất nước có giặc, vua Hùng phải lập đàn khấn cầu các Thần linh giúp sức, lại sai sứ giả đi chiêu tập hiền tài huấn luyện binh nhung. Nghe tiếng loa truyền, 9 rắn hoá thành 9 chàng trai, cùng vào yết kiến nhà vua xin tham gia tiễu trừ quân giặc. 9 anh em nhất hô, bách ứng kéo theo cả thuồng luồng, thuỷ quái ra trận. Chỉ một ngày giặc tan, đất nước trở lại thanh bình. Vua Hùng truyền lệnh phong cho 9 chàng trai là 9 ông Hoàng.
Ngày 22/8 năm Bính Dần, bỗng một vầng hào quang chói loà, 9 chàng trai lại trở thành 9 con rắn trở về với dòng sông Tam Kỳ. Từ đó dân làng truy ơn lập 9 ngôi đền thờ các dũng tướng đã giúp vua trừ giặc ở dọc hai bờ sông, từ bến đò Tranh đến tận cửa biển Diêm Điền và đền Đồng Bằng là nơi thờ người cha chèo đò trên bến sông thuở ấy, với duệ hiệu Trấn Tây Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải động đình gọi nôm là vua cha Bát Hải.
Một truyền thuyết khác kể rằng: Ông là con trai thứ năm của vua cha Bát hải Động đình. Ông là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Ông đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong Công hầu. Ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp là vợ lẽ của một viên quan, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh chồng chung, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng.
Ông vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan kia biết chuyện, vu cho ông đã quyến rũ vợ mình. Ông bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn, trong bản văn trầu có câu ca sau:
"...Ngày hai nhăm tháng năm bắt đày chốn sơn cùng thủy kiệt,
Oan vì tuyết nguyệt bởi lòng ái ân..."
Xem ngay: Căn đồng: 3 năm thử lính, chín năm thử đồng
Tại bến sông Kỳ Cùng, để chứng tỏ mình vô tội, ông nhảy xuống dòng sông Kỳ Cùng mong rửa oan. Hồn Ông trở lại quê nhà, hiện thành đôi bạch xà. Rồi một ông bà lão nông bắt được đem về nhà nuôi nấng như thể con mình. Đến khi viên quan phủ biết chuyện ông bà nông lão mua gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và đòi giết chết đôi bạch xà. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội.
2. Câu chuyện truyền thuyết chi tiết về: “ Truyện ông Dài, ông Cụt”
Ngày xưa, có hai vợ chồng già làm ruộng một hôm đi ra ngoài đồng, thấy hai quả trứng lạ, nhặt đem về nhà. Được ít lâu, hai quả trứng nở ra hai con rắn rất khôn, hai vợ chồng đi đâu chúng nó thường bò theo. Hai người không con nên cứ nuôi chúng nó, xem như là con, thường ngày cho ăn uống tử tế.
Một hôm, người chồng cuốc vườn, vô ý cuốc đứt một khúc đuổi của một con. Sau đó, vợ chồng mới gọi hai con rắn đặt tên cho là con Dài, con Cụt. Hai con rắn lớn lên, ăn rất tợn, nhà nghèo không đủ nuôi, chúng nó thường đi bắt gà, chó của hàng xóm mà ăn. Hai vợ chồng không nuôi nổi, mới đem thả xuống sông Tranh, bây giờ thuộc Hải Dương.
Hai anh em rắn Dài và Cụt được Thủy Vương nhận làm bộ hạ và cho cai quản cả một vùng sông rộng. Rắn Cụt tính khí dữ tợn hơn rắn Dài, hoành hành khắp vùng, làm cho dân chúng phải kiêng sợ gọi tên là ông Dài và ông Cụt. Có khi chúng bắt cả người, còn cướp súc vật là chuyện thường xảy ra. Ghe thuyền qua lại trên khúc sông, thường bị ông Cụt nổi sóng dữ tợn làm cho đắm. Cha mẹ nuôi ông Dài, ông Cụt thỉnh thoảng lại phải ra bờ sông van lơn xin con nuôi đừng làm hại người ta. Chúng cũng nghe theo được ít lâu, rồi lại đâu vẫn hoàn đấy.
Có lần hai vợ chồng họ Trịnh đi thuyền qua đó, ông Cụt thấy người vợ là Dương Thị nhan sắc xinh đẹp, muốn bắt về làm vợ, cho hai người con gái bưng lễ vật đến hỏi. Hai vợ chồng hoảng sợ bỏ thuyền lên bờ trốn tránh. Nhưng rồi ông Cụt cho bộ hạ theo dõi, thừa một đêm mưa gió, bắt Dương Thị đem về dưới Thủy Phủ. Sáng ngày, người chồng theo dấu ra đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.
Người chồng không biết làm thế nào, đành nuốt hận đi đây, đi đó tìm người phép tắc thần thôn để trừ ông Cụt. Một hôm, họ Trịnh gặp một ông già ngồi bói ở chợ, lân la hỏi mới biết là Bạch Long Hầu tức là Thần Mưa ở dưới Thủy Cung. Bạch Long Thần rẽ nước mời họ Trịnh về nhà mình ở dưới biển, giúp bàn việc kiện ông Cụt với Long Vương. Họ Trịnh đưa cái thoa của vợ nhờ người nhà Bạch Long hầu làm của tin để dò tìm Dương Thị ở dưới Thủy Phủ.
Khi đã bắt liên lạc được với Dương Thị rồi, họ Trịnh bèn cậy Bạch Long Hầu đưa đến triều đình Long Vương để tố cáo tình địch đã cướp vợ mình. Long Vương cho đòi ông Cụt tới. Ban đầu ông Cụt còn chối cãi, toan làm dữ với họ Trịnh, nhưng đến khi Dương Thị ra kể lại sự tình bị ông Cụt bắt cóc, ép duyên, thì họ Trịnh liền được kiện. Long Vương xử cho Dương Thị trở về mặt đất với họ Trịnh, con của nàng sinh với ông Cụt thì giao lại cho ông Cụt. Ông Cụt bị đày đến ở sông Kỳ Cùng, thuộc về Lạng Sơn ngày nay.
Ngày ông Cụt bị giáng chức đi đày, các loài thủy tộc đi theo tiễn chân đầy cả một khúc sông. Được biết hiện nay gần cầu Kỳ Lừa trên bờ sông Kỳ Cùng có ngôi đền thờ “ Thần sông nước” bị đuổi từ huyện Vĩnh Lại đất Hồng Châu lên, được nhiều người đến bái và cầu tài cầu lộc.
3. Theo lịch sử nghi chép.
Thời kỳ Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Nam Việt ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển Thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân. Nhưng phép đó là gì thì chỉ những người nào đó trong tín ngưỡng Tam-Tứ Phủ sát bóng Quan Tuần mới có thể được ban ấn lệnh.
Trong tín ngưỡng Tam-Tứ Phủ thờ Nhạc Phụ của Kinh Dương Vương ( Kinh Xuyên ) là phụ vương của Sùng Lãm Tức Đại Thánh Lạc Long Quân cai quản Thủy phủ (Thoải Phủ) với vai trò là vua cha tức vua cha Bát hải Long vương (Thoải Phủ) hay Bát hải Động đình vương (Hồ Động Đình ở sông Dương Tử nay thuộc Trung Quốc). Nên Quan đệ ngũ Tuần Tranh chính là con trai của vua Lạc Long quân.
Trong hàng Ngũ vị Tôn quan, Ông là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân tôn kính phụng thờ. Trong các buổi lễ Mẫu Tam- Tứ Phủ, Ông đều giáng ngự đồng. Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ, chứng đàn tiễn đàn. Rồi múa thanh long đao, khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.
Lại có tích Có tích kể rằng: “Tương truyền, Quan lớn Tuần Tranh là viên quan phủ Ninh Giang. Ngày xưa, tại bến sông Tranh, có hai con rắn dữ thường nổi lên quấy phá. Một hôm, chúng bắt đi nàng hầu xin đẹp của quan. Vị quan này khởi kiện Diêm Vương. Rắn bị xử thua phải mang cả dòng họ dời đi nơi khác.
Từ đó bến sông sóng yên nước lặng, nhân dân nhớ ơn vị quan phủ mà lập đền thờ, tôn là vị thần bảo vệ khúc sông "Rằng Người là vợ chồng một nông dân nghèo và vợ chồng viên Tri phủ. Thần là thuồng luồng, Bạch Long Hầu( thần mưa), Long cung” truyện đối tụng ở Long cung” còn một chi tiết sau khi thuồng luồng ra hầu tòa và bị đày lên phương bắc thì ngôi đền bên bờ sông tường siêu, vách đổ, bia gãy rêu trùm.
3. Đền thờ Quan Lớn Tuần Tranh ở đâu?
Các đền thờ ngài bao gồm các đền sau:
- Đền Tuần Tranh, Hải Dương
- Đền Kỳ Cùng Lạng Sơn
Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất: đầu tiên là Đền Ninh Giang và thứ hai là đền Kỳ Cùng.
Ninh Giang là đất anh hào
Linh thiêng dũng mãnh ai nào sánh hơn
Đời đời non nước ghi ơn
Quan tuần bảo vệ non sơn nước nhà
Thanh niên cho tới người già
Thành tâm bái yết ông trục tà cho
Đời đời sẽ được ấm no
Quan tuần lẫm liệt ông cho thái hoà
Bóng ông lịch sự nhất toà
Cứu nhân độ thế trung hoà nước non
Đền Ninh Giang lập bên bến sông Tranh ở xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại thời Lê và Nguyễn nay thuộc thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích) và đền Kỳ Cùng lập bên bến sông Kỳ Cùng ở xã Vĩnh Trại - Châu Thoát Lãng, nay thuộc TP Lạng Sơn (cầu Kì Lừa là nơi ông bị lưu đày). Đền Tranh còn có tên gọi là đền Quan lớn Tuần Tranh.
Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.
Lễ hội tại đền Tranh
Đền Tranh một năm có ba mùa lễ hội. Hội tháng 2, từ ngày 10-20 / 2, trọng hội vào 14 - ngày sinh của quan lớn Tuần Tranh, đây là hội chính hàng năm. Hội tháng 5, từ ngày 20-26 / 5, trọng hội vào 25 - ngày hoá của Đức thánh. Lễ hội đền Tranh có quy mô rộng lớn, thu hút khách nhiều tỉnh phía Bắc, một trong những hội lớn của Hải Dương, có sức hấp dẫn lạ thường, đặc biệt với các bà các cô ở các thành phố, bởi thế khách thập phương đến đây rất đông. Không chỉ trong những ngày hội (thường kéo dài tới 7 ngày) mà những ngày thường cũng không ít khách đến lễ và không thể thiếu tiết mục hát chầu văn.
Đền Kỳ Cùng Lạng Sơn
Nửa thế kỳ trôi qua, thị trấn đã trải qua những thăng trầm qua hai cuộc chiến tranh, đền Tranh được dựng lại và tôn tạo trên địa phận thôn Tranh Xuyên xã Đồng Tâm. Không những đền được tôn tạo lại rất bề thế uy nghiêm mà còn được mở rộng rất nhiều, bên cạnh còn có chùa Tranh mới được xây dựng thêm. Không chỉ ngày hội mà ngày thường khách đến lễ cũng rất đông.
Đền hiện nay có 11 ban thờ:
- 1- Ban thờ Phật
- 2- Ban thờ Thánh mẫu
- 3- Ban thờ Ngọc hoàng Thượng đế
- 4- Ban thờ Ngũ vị tôn ông
- 5- Ban thờ Tứ phủ chầu bà (Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ)
- 6- Ban thờ Quan lớn Tuần Tranh
- 7- Ban thờ Sơn trang.
- 8- Ban thờ Động chúa sơn lâm
- 9- Ban thờ Thành hoàng: Quý Minh và Vũ Đô Mạnh
- 10- Ban thờ Mẫu địa
- 11- Ban thờ Đức thánh Trần
Phần hội ở đây rất giản dị, đặc biệt phần lễ thì vô cùng phong phú và hấp dẫn. Những lời khấn ở đây hầu hết được viết thành thơ và được thể hiện bằng điệu chầu văn rất mượt mà, sôi nổi.Có thể nói, lễ hội đền Tranh là lễ hội hát chầu văn.
Văn QUAN ĐỆ NGŨ TUẦN TRANH
Trong khi thỉnh ông về, văn thường hát:
“Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
Ninh Giang chính quán quê nhà
Dấu thiêng ghi để ngã ba Kì Cùng”
Hay nói về nỗi oan của ông, văn hát sử oán rằng:
“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Oan vì bướm lả ong lơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”
Hoặc có cả những đoạn ca ngợi công lao, tài đức của ông:
“Loa đồng hỏi nước sông Tranh
Đao thiêng dẹp giặc, anh hùng là ai
Sông Tranh đáp tiếng trả lời
Anh hùng lừng lẫy là người Ninh Giang”
Còn khi quan ngự đồng, khai quang chứng sớ điệp, ra oai giúp dân trừ tà thì văn hát rằng:
“Ông về truyền phán các quan
Tả cơ hữu đội lưỡng ban đáo đàn
Quân thuỷ quân bộ đôi hàng
Chư binh vạn mã hằng hà kéo ra
Lệnh truyền thiên đội vạn cơ
Quan Tuần bây giờ trắc giáng anh linh
Trước là bảo hộ gia đình
Sau ra thu tróc tà tinh phen này
Ra oai trần thế biết tay
Ngự lên đồng tử cứu rày nhân gian
Cứu đâu thời đấy khỏi oan…”
Như vậy một vị quan trong Tín ngưỡng Tam- Tứ Phủ có rất nhiều lớp thần tích và điển tích khác nhau, có thể là thật, cũng có thể là huyễn hoặc nhưng tất cả đều nhuốm màu huyền bí. Điều này càng làm cho Tín Ngưỡng Tam -Tứ Phủ trở nên linh thiêng & gần gũi, dần trở thanh một nét văn hoá sống động của dân tộc Việt Nam, góp phần củng cố bảo tồn và truyền bá Nội Đạo ra ngoài lãnh thổ.
Chúc các bạn vui thân tâm an lạc.
Tamlinh.org (Thơ: Phạm Văn Hải)