04/06/2021 11:45 View: 18749

Đại tiệc Quan Lớn Tuần Tranh vào ngày nào?

Quan Lớn Tuần Tranh là một nhân vật lịch sử cụ thể, có tên tuổi, có tước vị sinh thời, có chiến công, có triều đại, có niên đại lịch sử. Bao nhà nghiên cứu truy tìm tài liệu, tra cứu cổ thư, thư tịch cổ để tìm ra Ngài là ai, vậy  Quan Lớn Tuần Tranh thực sự là ai? Ngày đại tiệc  Quan Lớn Tuần Tranh ? Đền  Quan Lớn Tuần Tranh ở đâu?

Quan de ngu tuan tranh, quan lon tuan tranh

Vừa Gặp Hội Bể Yên Sóng Lặng
Triệu Bách Thần Truy Tặng Sắc Phong
Quan Tuần Tranh Lẫm Liệt Uy Hùng
Cứu Dân Hộ Quốc Phong Công Hàng Đầu
...

Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Tên đầy đủ: Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Tước phong: Đệ ngũ tôn quan thượng đẳng tối linh thần – Cao Lỗ đại vương – Đệ ngũ Tuần Tranh.

Nhiệm vụ: Ngọc Hoàng ban cho Ngài thống lĩnh thiên địa binh, thay quyền tam tứ phủ đại diện cho con người (nhân vi chúa tể), thu chấp kim ngân tài mã, giải oan nghiệp sớ cho trần gian.

Đề thờ chính: Đền Ngài được lập ở đền Kỳ cùng Lạng Sơn, Đền Ninh Giang Hải Dương và các cửa sông vùng duyên hải.

Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh về ngự đồng

Trong hàng Ngũ Vị Tôn Ông, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy trong hàng Năm Toà Ông Lớn, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất (bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp tiệc, đàn lễ nào đều phải thỉnh Quan Tuần Tranh về ngự).

Khi ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ trạng rồi mới được đem đi hoá.

Đền thờ Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh

Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất:

  • - Đầu tiên là Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích)
  • - Thứ hai là Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày).

Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.

Quan lớn tuần Tranh thực sự là ai? 

Ngài là một nhân vật lịch sử cụ thể, có tên tuổi, có tước vị sinh thời, có chiến công, có triều đại, có niên đại lịch sử. Bao nhà nghiên cứu truy tìm tài liệu, tra cứu cổ thư, thư tịch cổ để tìm ra Ngài là ai trong lịch sử. Ngài đã được làm sáng tỏ là 1 vị Thánh danh diện cụ thể trong lịch sử, mọi sự rất rõ ràng, được lịch sử ghi nhận như Đức Thánh Trần. Năm bảy tích xưa về ngài như ông Cộc, Quan yêu nhầm vợ quan huyện hay thuồng luồng bờ sông... đều đã trở thành huyền thoại. 

Trong tín ngưỡng thờ hệ thống các vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, hiện vẫn có lễ hội tôn thờ Đức Thánh Quan đệ ngũ Tuần Tranh. Họ tên của Vị thánh này dần được sáng tỏ nhiều năm qua một số giá hầu đồng riêng biệt, khác nhau cả về địa điểm cũng như địa phương. Đã có những phương pháp đối chiếu đủ để chứng minh rằng không có sự liên hệ giữa các Thanh Đồng khi được Thánh giáng cho biết tên của Ngài là Cao Lỗ – Đây là một nhân vật lịch sử đã được ghi trong Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngoại kỷ quyển I – Kỷ Nhà Thục như sau:” Vua ( An Dương Vương) sai bề tôi là Cao Lỗ (Có bản chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy nỏ, đặt tên là Linh quang kim trảo thần nỏ”.

Theo các chứng cứ này, đối chiếu thư tịch thì Cao Lỗ (Chưa rõ họ và năm sinh – mất 179 trước Công nguyên, có một số thư tịch cổ lại ghi tên ông là Cao Nỗ, Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Thần Đô Lỗ Thạch Thần) là một Đại thần – Danh Tướng của Thục Phán An Dương Vương. Ông sinh ra tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay (thời Hùng Vương là bộ Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ là đất của hai huyện Long Biên và Luy Lâu. Qua nhiều triều đại đổi tên khác nhau. Xem bản đồ Hồng Đức năm thứ 21 ghi là xứ Kinh Bắc, sau đổi là Trấn.Năm Minh Mệnh thứ 3 đổi làm trấn Bắc Ninh. Minh mệnh năm thứ 13 gọi là Tỉnh Bắc Ninh).

Ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô tại nơi xưa là đất kinh đô nhà nước Việt Thường, và Cao Lỗ là người được An Dương Vương giao cho xây thành Cổ Loa. Xưa xã Cổ Loa thuộc huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh, sử viết thành Cổ Loa rộng ngàn trượng (1 trượng = 1,65 m, như vậy chiều rộng khoảng 1,650.mét) quanh co như hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành, lại có tên là Tử Long Thành. Người Trung quốc gọi là Côn Lôn thành vì thành rất cao – Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn.

quan lon tuan tranh, quan de ngu

Cũng theo một số truyền thuyết và một số bài hát văn chầu lễ Thánh Quan Lớn Tuần Tranh thì ông sinh ra tại Ninh Xá, Ninh Giang, tỉnh Hải Dương ngày nay.

Vào thời Hùng Vương thứ 18, Cao Lỗ là một vị Đại Tướng kỳ tài của nước Văn Lang độc lập, ông được giao hợp nhất quân với Tây Âu Lạc của Thục Phán để Cao Lỗ thống lĩnh chống 50 vạn quân Nhà Tần do Đồ Thư cầm đầu tiến quân vượt sông Dương Tử về phía nam xâm lược Bách Việt. Sau khi đã chiếm hết vùng Ngô Việt, Mân Việt, . . . Quân Tần tiến vào vùng đất của người Lạc Việt. Người Lạc Việt rút vào giữ nơi hiểm yếu cầm cự với quân Tần. Lâu ngày, quân Tần hết lương, người Việt ra đánh giết mấy chục vạn quân Tần cùng Đồ Thư. Nhà Tần phải rút chạy về nước ( Hoài nam Tử, Sử ký, sách đã dẫn).

 Đây là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm lần thứ nhất của người Việt được sách sử và thư tịch, truyền thuyết, tín ngưỡng dân gian cả Việt nam và Trung quốc đều có ghi chép.

Sau khi Thục Phán hợp nhất Văn Lang và Tây Âu Lạc thành nước Âu Lạc về đóng đô ở Cổ Loa theo ý kiến của Cao Lỗ. Ông được An Dương Vương trọng dụng giao cho việc xây đắp thành Cổ Loa, tổ chức và luyện tập quân đội trở nên hùng mạnh. Ông cũng là người phát minh ra nỏ liên châu, loại vũ khí đánh xa rất có uy lực thời cổ. Ông đã thống lĩnh quân đội Âu Lạc nhiều lần đánh thắng quân xâm lược của Triệu Đà lúc đó là Nam Việt Vương từ vùng Lưỡng Quảng tấn công xâm lược lãnh thổ Lạc Việt. Quân Việt Âu Lạc được ông rèn luyện, có vũ khí đánh xa là hàng nghìn nỏ liên châu có thể bắn ra cùng lúc hàng vạn mũi tên đồng đã đánh bại quân Triệu Đà.

Vì có công lớn nên ông được giao chức vụ đứng đầu trong Triều đình. Ông đem lòng yêu công chúa Mị Châu – con gái An Dương Vương Thục Phán, nhưng Mị Châu lại phải lòng Trọng Thủy là con Triệu Đà được nhiều lần đi sứ cầu hòa đến An Dương Vương. Thấy quân lực Âu Lạc hùng mạnh, biết không thể đánh bại bằng quân sự, Triệu Đà dùng mưu đưa con Trọng Thủy lấy công chúa Mị Nương để tìm bí mật về tổ chức quân sự và quy cách vũ khí nỏ liên châu. Cao Lỗ can ngăn An Dương Vương không cho Mị Châu lấy Trọng Thủy, vì thế An Dương Vương bắt đầu nghi ngờ Cao Lỗ, nên vẫn cho đồng ý kết thông gia với Triệu Đà mà tin rằng sự hòa hiếu để tránh được chiến tranh xâm lược của Nam Việt ( Sách đầu tiên ghi việc Trọng Thủy lừa Mị châu là sách Giao châu ngoại vực ký do Thủy Kinh chú đã dẫn quyển 14). Sau đó Trọng Thủy trở về Nam Việt trình lên vua Nam Việt Vương Triệu Đà tất cả bí mật về quốc phòng của Âu Lạc.

Quân Triệu Đà tấn công, nhưng không giành ngay được thắng lợi tuyệt đối. Nỏ liên châu cũng không còn phát huy tác dụng như trước vì quân Triệu Đà đã có cách chống lại. An Dương Vương cho rằng Cao Lỗ đã để lộ bí mật quân sự, lại thêm một số quyền thần vốn ghen ghét xàm tấu thêm khép ông vào tội chém. Nhưng vì ông có công lớn, trong án có những sự không sáng tỏ bởi vậy nên Triều đình chỉ bãi hết chức đầy Cao Lỗ lên vùng biên ải (nay là tỉnh Lạng Sơn).

Do bị oan ức không thể giãi bầy được, lại thêm tính cương trực không chịu khuất, khi đến nơi đi đầy, quân áp giải vừa mở gông cùm, Cao Lỗ đã thề lấy cái chết để rõ mình vô tội và nhẩy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn. Sau khi ông chết ngày 25/5 năm Nhâm Thân ( năm 179 Tr.CN), triều đình chia rẽ, quân đội Âu Lạc không có Cao Lỗ thống lĩnh đã thất bại hoàn toàn trước sức tấn công của quân Nam Việt của Triệu Đà vào năm Giáp Tý (năm 177 Tr.CN). An Dương Vương thua chạy đem theo con gái Mị Châu. Trên đường trốn chạy, theo ước hẹn, Mị Châu đã rắc lông ngỗng để báo cho Trọng Thủy tìm theo, vì vậy An Dương Vương không thể thoát, trước khi chết, An Dương Vương đã chém Mị Châu. Đây chính là truyền thuyết Mị Châu -Trọng Thủy nổi tiếng trong văn học dân gian Việt Nam còn lưu truyền đến ngày nay. Nước Âu Lạc bị diệt, rồi bị chiếm nhập vào Nam Việt của Triệu Đà mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam.

Sau khi ông chết, dân Việt nhớ ghi công đức lập đền thờ ông tại nơi ông tuẫn tiết ở bên sông Kỳ Cùng và tại nơi ông hiển linh là bến Tranh xã Ninh Giang, huyện Vĩnh Lại (nay là Ninh Giang, tỉnh Hải Dương bây giờ). Nơi đây còn được coi là quê nhà của Quan Lớn Tuần Tranh vì cho rằng ông là quan văn ( Thái thú) ở Hồng Châu, có vợ là Dương thị, mà cơ sở là lấy từ truyện “ Chuyện đối tụng ở Long Cung” trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ viết vào thời nhà Mạc.

Hải Dương xưa vào thời Hùng Vương là bộ Thanh Tuyền, đời Tần Hán thuộc Giao Chỉ. Đến đời nhà Trần đổi là Lộ Hải Đông vì đất ấy có chỗ là biển. Năm Quang Thuận thứ 7 đặt Nam Sách thừa tuyên gồm 4 phủ là Thượng Hồng, Hạ hồng, Nam sách và Kinh Môn có tất cả 18 huyện. Phủ Hạ Hồng có 4 huyện là Trường Tân, Tứ kỳ, Vĩnh Lại, Thanh Miện – Theo Đại Nam nhất thống chí, sách đã dẫn. 

Đại Nam nhất thống chí ghi về tỉnh Bắc Ninh có Đền Cao Công:” Ở bờ sông xã Đại Than, huyện Gia Bình, bên cạnh đền có tảng đá lớn dựng đứng. Ngoại kỷ Sử ký ghi đời Đường, Cao Biền đi đánh phương Nam qua châu Vũ Ninh, đêm mộng thấy thần về xưng là Cao Lỗ nói ngày trước ta giúp An Dương Vương chế nỏ thần gọi là Linh quang kim trảo thần nỗ, có công đánh lui giặc, rồi bị Lạc Hầu gièm pha, sau khi mất, Thượng Đế thương là người trung nghĩa cho cai quản ở đây. Cao Biền tỉnh dậy đêm việc ấy nói với thuộc hạ rồi đề thơ ở miếu. Sách Tục bác vật chí viết An Dương Vương có thần nhân là Cao Thông chế nỏ mỗi lần bắn giết được 200 người”. 

 Đền Tranh hay đền Quan Lớn Tuần Tranh thuộc xã Tranh Xuyên, tổng Bất Bế. Thời Lê và thời Nguyễn gọi là huyện Vĩnh Lại (thị xã Ninh Giang hiện nay). Hơn hai nghìn năm qua, hàng năm có lễ hội rất lớn ngày sinh của ông là ngày 14/2 Âm lịch, và ngày giỗ kỵ 25/5 Âm lịch. Ông hiển Thánh là một Vị quan lớn là Đức Thánh Vương quan đệ Ngũ của Đạo Thánh Mẫu Việt. Các giá hầu đồng về ông đều mặc áo bào mầu tím và cầm thanh đại đao như khi ông còn sinh thời đánh giặc ngoại xâm.

Văn chầu Đức Thánh Quan Lớn đệ ngũ Tuần Tranh

Văn lễ  Đức Thánh Quan Lớn đệ ngũ Tuần Tranh có rất nhiều bản khác nhau, sau đây là một trong những bản văn chầu Ngài đã góp phần ghi công tích trong lịch sử chống ngoại xâm của Dân tộc Việt Nam:

Ra uy lẫm liệt tung hoành,

Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài,

Văn Lang thời ấy là ai,

Chỉ huy quân Việt diệt loài ngoại xâm,

Ninh Giang chính quán quê nhà.

Ông là Đại tướng danh là Tuần Tranh

Nào ngờ thời vận đổi thay

Đình thần vốn đã tỵ hiềm

Án oan quy tội cho người trung lương

Chỉ vì công lớn, oan gia

Không sao gỡ tội phải ra tội tù.

Lệnh viễn xứ đầy đi,

Sơn cùng thủy tận ngã ba Kỳ cùng.

Anh hùng mang nặng xiềng gông,

Áo chiến bào giờ đã nhuốm mầu chàm xanh

Lòng trung lương nào ai hay biết,

Có trời xanh mới tỏ tâm can

Trẫm mình đáy nước minh oan

Sông Kỳ Cùng rửa hết nhục oan cho người

 

Đọc:

Ninh Giang chính quán quê nhà,

Danh lam Thánh tích một tòa ngôi cao.

Cảnh Thiên thai Quan Tuần ngự giá

Trừ tà sát quỷ nổi danh tướng tài.

 

Phú:

Nước Âu Việt vào đời Thục phán,

Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng

Triều đình ra lệnh tiến binh

Thuyền về một bến sông Tranh rợp trời.

Công quốc gia,

 Thượng đẳng Thánh linh

Anh hùng mở mặt giang sang

Lưu danh thiên cổ

Vẻ vang giống nòi

 

Thơ:

Sông Tranh ơi hỡi bến sông Tranh,

Non nước còn ghi trận tung hoành,

Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,

Ngàn thu ghi nhớ dấu oai linh,

Ai về qua bến sông Tranh

Nhớ người tráng sỹ tài danh tuyệt vời.

Kết luận

Hơn 2,180. năm sau khi vị Anh hùng chống ngoại xâm của Dân tộc Việt Nam Cao Lỗ chết oan, danh tính chính thức tên ông mới được xác nhận qua nhiều Thánh Lễ hầu đồng của Đạo Thánh Mẫu Việt. Tên của Ngài – Cao Lỗ đã hy sinh vì Nước rồi hiển linh là một trong 72 Vị Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt đã làm vinh danh cho tinh thần quật khởi chống ngoại xâm dân tộc và tiêu biểu cho nền Văn minh rực rỡ của Dân tộc Lạc Việt.

Sự xác nhận chính danh của  Quan Lớn Tuần Tranh là Cao Lỗ đã làm vinh quang  rạng rỡ cho Vị Anh Hùng cứu nước đầu tiên của Dân tộc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm này là cơ sở để xác nhận chính xác nguồn gốc, họ tên, thánh tích của Vị Anh Hùng Dân tộcViệt  đã hiển Thánh trong Đạo Thánh Mẫu Việt, đồng thời cũng là thực hiện tâm nguyện của các bậc Tiên Liệt là không có ai là người anh hùng vô danh.

Nguồn: Nghiên cứu lịch sử