Hát văn Chầu Mười Đồng Mỏ thường diễn ra tại đền Mỏ Ba Lạng Sơn trong những ngày đầu xuân và chính tiệc, lễ hội Chầu Mười hay khi hầu giá Chầu Mười. Các cung văn hát chầu văn phục vụ khách hành hương đi lễ. Vậy bản văn thỉnh Chầu Mười Đồng Mỏ như thế nào? Hãy cùng Tamlinh.org tìm hiểu
Hát văn, chầu văn là gì?
Hát văn, còn gọi là chầu văn hay hát hầu đồng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Phần lời của các bản chầu văn thường sử dụng các thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục bát, nhất bát song thất (hay song thất nhất bát), hát nói…với mục đích làm cho buổi lễ sống động, mời gọi các vị Tiên Thánh giáng trần.
Xem thêm: Chầu Mười Đồng Mỏ: Sự tích, đền thờ, văn khấn
Người hát chầu văn gọi là gì?
Người trình bày các bản hát văn được gọi là “cung văn”. Cung văn ngồi một bên trong nghi lễ, hai bên là nhạc công tấu nhạc và ban hát phụ họa.
Người hát thường là các nghệ nhân lớn tuổi. Họ vừa chơi nhạc cụ vừa thay nhau hát trong một vấn hầu kéo dài khoảng 4 – 8 giờ đồng hồ. Nhạc cụ thường gồm:
- Đàn nguyệt
- Trống ban (trống con)
- Phách, cảnh, thanh la
Và một số các nhạc cụ khác như: sáo, trống cái, đàn thập lục, đàn nhị, kèn bầu, chuông, mõ, đàn bầu…
Hát văn Chầu Mười Đồng Mỏ - cung văn Nguyễn Thị Chảo
Hát văn Chầu Mười Đồng Mỏ - cung văn Hoài Thanh
Hát văn Chầu Mười Đồng Mỏ - cung văn Xuân Hinh
Bản lời văn Chầu Mười
Ai lên Đồng Mỏ Chi Lăng
Nhớ người nữ kiệt cứu dân tiền triều
Nước non gặp vận hiểm nghèo
Chầu Mười Đồng Mỏ sớm chiều xông pha
Vốn người sinh quán Mỏ Ba
Cần lao nối dõi việc nhà đao cung
Gặp thời Thái Tổ Trung Hưng
Giúp vua dẹp giặc Liễu Thăng hàng đầu
Vua sai Chầu trấn các châu
Khắp vùng xứ Lạng địa đầu giang san
Giặc Minh quen thói bạo tàn
Mưu đồ xâm chiếm biên cương địa đầu
Lệnh truyền hiệu triệu các châu
Sơn trang tám tướng nghe chầu ra binh
Mười đông chiến lược tung hoành
Dẹp tan giặc dữ triều đình phong công
Rước Chầu trở lại sơn trung
Giúp dân lập ấp lên vùng Mỏ Ba
Đức tài đã dậy gần xa
Bản mường cao lũng trẻ già đội ơn
Cuối thu mạn hạn về tiên
Nhân dân kỉ niệm lập Đền Mỏ Ba
Người gần cho chí người xa
Rủ nhau trảy hội mỏ ba sớm chiều
Đường lên khuất khúc cheo leo
Chênh vênh núi đá tai mèo nhấp nhô
Mỏ Ba phong thủy họa đồ
Suối trong uốn lượn đền thờ trang nghiêm
Long xà hổ phục chim muông
Vượn dâng trái chín ngát hương hồng đào
Nghe chim gõ mõ sớm chiều
Phượng hoàng tung cánh mĩ miều họa ca
Canh ba giờ tí hiện ra
Áo vàng phấp phới khăn hoa dịu dàng
Lưng đeo kiếm bạc cung vàng
Cưỡi trên mình ngựa hiên ngang oai hùng
Đêm thanh bẻ lái giữa dòng
Lạng Giang ,Bản Thí ,Kì Cùng Lạng Sơn
Dừng thuyền bái yết chùa tiên
Thoát thôi Chầu trở về miền Tam Thanh
Dạo chơi Bắc Địa Long Thành
Sông Hương , núi Ngự như tranh họa đồ
Tháp chùa Thiên Mụ nhấp nhô
Sài Gòn , Gia Định chơi chùa Vĩnh Nghiêm
Bạch Đằng bến Nghé Thủ Thiêm
Chơi thôi chầu lại về miền Cốc Giang
Lăng Ông cổ tích danh lam
Khi chơi Đà Lạt lúc sang Vũng Tàu
Khắp hòa Tam thập lục châu
Kon Tum Đắc Lắc một bầu sơn trung
Rừng già Chầu đã từng sang
Rừng Buôn Mê Thuột tiên nàng đón đưa
Chôm chôm soài cát rừng dừa
Trăm hoa ngàn quả tiễn đưa chân người
Bắc Nam trung một bầu trời
Dâng hương khấn nguyện Chầu Mười giáng lâm
Chữ rằng sở nguyện tòng tâm
Tấm lòng đệ tử nhất tâm một đời
Hôm nay văn hát mấy lời
Vun trồng công đức ngàn năm vững bền