Cả đoàn bước lên xe về Hà Nội sau cái bắt tay và lời cảm ơn của Trưởng thôn. Cứ tưởng sẽ về đến Hà Nội ngay trong đêm, nhưng lúc ấy trời nổi cơn giông nên đành để sớm mai về.
Đêm ấy, trong một hoang thôn hẻo lánh, nhiều chuyện kì dị xảy đến với chị và cả đoàn...
Mười giờ tối, trời mưa rả rích, trái ngược với cái màu đen kịt của bầu trời.
Cả đoàn từ thiện có 4 người, tính cả chị là 5. Cái vali đựng đồ ăn thức uống cứ ghé qua một hộ dân thì vơi đi một ít, sau cùng thì chẳng còn lại gì, nó bị bà trưởng đoàn vứt lăn lóc một góc nhà. Căn nhà cấp 4 chỉ vẻn vẹn cái giường của chủ nhà, cùng một cái tủ chè cũ kĩ, ngoài ra không có gì khác. Căn nhà trông không khác gì nhà bỏ hoang, những lớp bụi dày cứ thế phủ lên nền bê tông thô ráp.
Trưởng thôn ngỏ ý mượn ngôi nhà cho đoàn vào trú chân, tại chủ nhà cũng đã lâu không về. Vì đi đường dài, lại khóc một hồi buổi chiều, chị khá mệt nên xin phép mọi người vào buồng trong nghỉ trước.
Tuy nói là buồng trong, nhưng thực ra nó chỉ là một cái vách nhỏ, chỉ đủ 2 người nằm. Nằm trong cái vách mà chị run cầm cập, cái vách tối thui, không có ánh sáng hắt vào vì nó nằm sâu bên trong. Cái khung cửa sổ cao cỡ nửa mét, trơ trọi trong đêm đen.
Chị ngủ lúc nào cũng không hay.
Không biết đã ngủ được bao lâu. Cơn đói làm cái bụng của chị sôi lên ùng ục. Xung quanh không có âm thanh gì cả. Chị bỗng nghe thấy tiếng thở thật đều...
Phải lắng nghe thật kĩ, chị mới chắc chắn đó là tiếng thở. Tiếng thờ khò khè như kẻ bị hen suyễn lâu năm. Nhưng thật đều, càng ngày càng rõ.
Trong cái vách tối ấy, không có ai ngoài chị cả.
Tôi miêu tả qua cho anh chị một chút về cái vách : Nó hình chữ V, vì không có ánh sáng nên chỉ có thể thấy một cái màu đen kìn kịt, sâu thăm thẳm tưởng chừng như dẫn chị đến ngay cái lối nhà thằng bé mồ côi.
Trong đầu chị bất giác liên tưởng tới thằng bé, chị cứ nhớ cái ánh mắt hồi chiều của nó.
Tiếng thở mỗi lúc một to, bấy giờ nó không chỉ đơn giản là tiếng thở nữa, nó như tiếng gầm gừ của con chó đen đã xô chị ngã.
Chị sợ quên cả việc thở, đến khi đầu óc chị quay cuồng vì thiếu oxi, chị mới há miệng thật to rồi hít lấy hít để. Sau đó chị ho sặc sụa.
Chị lùi lại định quay người bỏ chạy, nhưng có lẽ do nằm quá lâu, chân chị tê cứng, không nhấc nổi. Chị hét lên một tiếng rồi vật ra đất, nhắm nghiền mắt xong khóc nức nở...
Tôi biết chị sợ. Chị yếu bóng vía lắm, có lần tôi cùng chị đến Bệnh viện thăm bạn của chị bị tai nạn đứt lìa ngón tay. Vì hôm đó là ngày mùng 2 Âm lịch, cả hành lang ngoài tôi với chị thì không một bóng người.
Lúc ra về đi qua xe cấp cứu, chị thở hổn hển rồi lấp ba lấp bấp không nói được câu nào. Tin tôi đi, nếu cái xe cấp cứu chạy trên đường mà không hụ còi inh ỏi, thì trong xe chắc chắn là xác chết. Sau đó tôi thấy mắt chị dại đi, nhìn về hướng xa xăm nào ấy, con mắt không có hồn, nó lờ đờ, đảo liên tục. Chị cứ thế chạy theo cái xe, tôi đuổi theo không kịp, kết quả là chị ngã xuống đường.
Một bác gái đi qua thấy vậy ghé sát vào mặt chị, đoạn bà lấy túi máu chó trong cái làn đi chợ, vẽ một đường dài từ trán đến nhân trung của chị. Một lúc sau thì chị tỉnh, chị bảo có người cứ đập tay lên cửa xe cấp cứu, bảo rằng cần chị lắm, rồi chị không biết gì nữa, cứ loạng choạng chạy theo.
Trở lại cái vách, chị nằm khóc một lúc thì giọng đã khàn đi.
Rồi chị cảm giác có sức nặng đang đè lên người chị, nó khiến chị không thở nổi. Sức nặng ấy càng ngày càng đè xuống, chị quơ tay nhưng không thấy gì cả. Như muốn hét lên, nhưng chị thấy chị hít thở không được nữa.
Sau đó chỉ còn lại tiếng ú ớ của chị trong cái vách nhỏ.
Không biết ai đã thấy nghe thấy tiếng của chị, rồi thì thầm bảo nhau vào xem có phải chị dính cảm không. Bà trưởng đoàn bảo người chị lúc bấy giờ xám ngắt, ai thấy cũng phải giật mình.
Rồi bà ấy vẩy trà hoa cúc lên mặt chị, tát chị 3 cái thì chị mở mắt. Nhưng chị không biết gì, mơ mơ màng màng. Mọi người đặt chị nằm xấp, người này bảo người kia, luộc trứng rồi đi chặt cành dâu. Không ai nói với ai câu nào, ánh mắt họ nhìn chị đầy thương xót.
Lúc này đã là 2h sáng, mưa tạnh hẳn.
Kiếm cành dâu xong thì bà cũng đã cạo gió cho chị rồi. Còn 1 quả trứng, bà bảo luộc phải còn lòng đào. Sau đó bà lăn khắp người chị, vệt ngón tay in hằn trên cổ chị như muốn nhắc chị là chị vừa thoát chết. Lăn xong quả trứng được bóc ra, bên trong lòng trắng đổi thành màu đen, ở giữa lòng đào ngửi tanh thối như mùi cá chết, hệt cái mùi trên chiếc khăn của chị.
Đêm đó mọi người nằm sát nhau trong căn nhà ấy, không ai dám thở mạnh.
Chị sốt, 40 độ...
Nhưng vẫn đòi về ngay trong buổi sáng hôm ấy
Cái nắng vàng rơi trên tóc chị, nó tinh nghịch nhảy nhót trên sống mũi và tai của chị. Mọi người trong xe hát hò vui vẻ, tưởng như họ đã quên cái đêm ấy.
Xe khởi hành được một lúc, chắc đã đi được tầm 5-6km thì đột nhiên phanh gấp. Bác tài tá hoả phát hiện xác con chó nằm giữa đường, máu tươi hoà cùng nước mưa chảy lênh láng, tanh nồng cả đoạn đường.
Chị kinh hãi nhận ra đó là con chó xô ngã chị, mới hôm qua thôi, nó còn khoẻ mạnh mà bây giờ chết không toàn thây: Một vài đoạn lòng đỏ thẫm nằm xung quanh vùng bụng nó, quả tim của nó cũng biến mất.
Bác tài lấy cái bao phủ lên người con chó, rồi đi tiếp sau khi đã kéo cái bao vào lề đường.
Chiếc xe vừa chạy bon bon mà bây giờ lại chết máy? Mọi người làm cách nào nó cũng không đi tiếp được nữa. Bà trưởng đoàn mới lấy cốc trà hoa cúc, đổ xung quanh người con chó. Sau đó chiếc xe lại trở về với trạng thái ban đầu của nó, nổ máy và đi thẳng.
Nhưng chị quên rồi, chị quên không trả lại viên đá đỏ cho con chó...
Chị về Hà Nội...
———————————————
Chuyện tiếp theo thì tôi đã kể cho anh chị, đó là buổi trưa mà chị hẹn tôi, chị ngồi kể với tôi và cho tôi xem viên đá đó. Chúng tôi lại nói chuyện với nhau đến tận tối, rồi tôi ra về. Nếu biết hôm đó là hôm cuối cùng của nhau, có lẽ tôi đã về muộn hơn, hoặc tôi sẽ không về.
Sau hôm đó thì chị trở bệnh, cái bệnh mà khám không ra, nhưng hành hạ chị cả ngày lẫn đêm.
Mẹ chị đón chị về rồi, có lẽ đó là sự chân thành nhất bà dành cho chị.
----------------------------------------
Xem tiếp: (Tập 1) (Tập 2) (Tập 3)
Bản quyền thuộc về tác giả Duy Không Đi Học