04/06/2021 11:43 View: 25095

Hầu đồng là gì? Ai mới có thể hầu đồng?

Hầu đồng là gì? Lên đồng có thật không? Ai mới có thể hầu đồng? Người có căn Hầu đồng là như thế nào? Trình tự hầu đồng và trình tự 1 giá hầu đồng? Hầu đồng để xin lộc lá?

hau dong. Len dong, can so, can dong so linh

Hầu đồng còn gọi là hầu bóng hoặc lên đồng. Đây là một nghi lễ, một hiện tượng tâm linh còn chứa đựng nhiều điều “bí ẩn” cho nên nhiều người coi đây là trò “mê tín” và “nhố nhăng”. Tuy nhiên, đó chỉ là “cảm giác” của những người chưa tìm hiểu gì về hầu đồng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ về nghi thức hầu đồng và nghệ thuật hát chầu văn mang đậm bản sắc văn hóa của dân tộc Việt.

Hầu đồng là gì?

Hầu đồng là một nghi lễ không thể thiếu trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần,…Về bản chất, lên đồng là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các ông đồng, bà đồng. Người ta tin rằng các vị thần linh có thể nhập thể linh hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng trong trạng thái tâm linh thăng hoa, ngây ngất nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Nghi lễ này thường mang những đặc điểm và sắc thái khác nhau như đền Nguyệt Hồ (Yên Thế), đền Suối Mỡ (Lục Nam)… Đặc điểm riêng ấy được thể hiện ở việc thờ các vị thánh trong đền.

Trong mỗi giá đồng, các vị Thánh khác nhau sẽ nhập vào ông đồng hay bà đồng (gọi là giáng đồng) để làm việc quan, thể hiện ở chỗ các ông đồng, bà đồng làm nghi lễ nhảy, múa, ban lộc, phán truyền trong tiếng hát văn và nhạc cung văn. Mỗi vị thánh nhập được gọi là một giá đồng. Trong nghi lễ hầu bóng thường có rất nhiều giá đồng. Người ta tính có thể tới 36 giá. Nhưng trong nghi lễ nhập đồng tuỳ theo có thể nhiều hoặc ít giá đồng, ít khi tới 36 giá.

Xem ngay: Vong tà và Căn số: Cách NHẬN BIẾT nhanh nhất

Hầu đồng diễn ra ở đâu?

Nghi lễ hầu đồng thường ở các đền, phủ diễn ra trong nhiều dịp trong một năm. Ví dụ

  • Hầu xông đền (sau lễ giao thừa năm mới)
  • Lễ Hầu Thượng Nguyên (vào tháng giêng)
  • Hầu nhập Hạ (tháng tư)
  • Lễ hầu Tán hạ (tháng 7)
  • Lễ hầu tất niên (tháng chạp)
  • Lễ Hạp ấn (25 tháng chạp hàng năm).

Trong một năm thường có hai lễ hầu quan trọng nhất là vào tháng 3 và tháng 8 (ngày giỗ cha và giố mẹ). Tức là tháng 3 ngày giỗ của Thánh Mẫu và tháng tám là ngày giỗ của vua cha Bát Hải, Đức Thánh trần… và trong năm tuỳ theo ở mỗi đền, Phủ hay mỗi ông đồng, ba đồng còn làm nhiều nghi thức và lễ hầu riêng như: Lễ trình đồng, lễ lên đồng, lễ hầu bản mệnh, lễ hầu Cô Bơ, lễ hầu quan Tam Phủ, lễ hầu ông Hoàng Bẩy, lễ hầu Quan Trần Triều, đức vua cha, lễ chầu ở đền Bắc Lệ, rồi ông Hoàng Mười, quan Đệ Nhị v.v…

Nghi thức hầu đồng

Khi thần linh nhập vào thì lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ. Để phục vụ cho nghi lễ quan trọng này người ta đã sáng tạo ra một hình thức lễ nhạc gọi là Hát văn (hát chầu văn) để phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển thánh.

Người đứng giá hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng, Thanh Đồng là nam giới thì được gọi là “cậu”, nữ giới được gọi là “Cô hoặc Bà Đồng”.

Về nghi thức, trước khi hầu ông Đồng hay bà Đồng thường phải thông qua người chủ Đền để làm lễ cúng chúng sinh và lễ Thánh. Với lễ chúng sinh đồ lễ được đặt trên mâm, như quần áo, tiền lá vàng, thỏi bạc, cháo và các loại bánh… (lễ này đều có trong các tứ phủ) để cúng các vong, hồn không có người thừa nhận, không có người hương khói. Trong buổi trình đồng các ông đồng, bà đồng đều có người trực tiếp giúp việc đặc biệt phải có là hầu dâng và cung văn. Người hầu dâng giúp ông Đồng hay bà Đồng các công việc như thắp hương, dâng các đồ trang phục, thay lễ phục sau mỗi giá đồng; Người giúp việc thường ngồi bên cạnh ông Đồng hay bà Đồng trước bàn thờ Thánh. 

Trang phục của họ là áo dài đen, quần trắng, đội khăn xếp (là nam), mũ, áo dài (nếu là nữ). Còn cung văn không thể thiếu trong lễ hầu đồng. Họ là người chơi nhạc và hát cho việc trình diễn ở mỗi giá đồng khi Thánh nhập. Nhạc cụ gồm có đàn, trống, sáo, phách… để dẫn hát trong mỗi giá hầu. Trong mỗi giá đồng nhạc hát phải phù hợp vào đúng khi Thánh giáng, Thánh thăng v.v… 

AI CÓ THỂ HẦU ĐỒNG?

Đa số những người hầu đồng là do hoàn cảnh bản thân thúc ép, do di truyền gia tộc hay bản tính có căn đồng. Người nào có “căn” mà chưa ra trình Thánh thì thường bị bệnh tật, ốm đau, mà đây là thứ bệnh “âm”, chữa chạy bằng thuốc thang không khỏi, khi làm ăn thường thất bát, thua thiệt. Dân gian gọi hiện tượng này là “cơ đày”, tức người đang bị Thánh đày ải. Ra đồng rồi thì thường sức khoẻ hồi phục, làm ăn được hanh thông.

Một khi đã bị Thánh “bắt lính”, tức ra trình đồng rồi thì hàng năm, tuỳ theo lịch tiết, đặc biệt là vào dịp “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, các Bà đồng, Ông đồng thường phải tổ chức làm lễ Lên đồng. Trong nghi lễ như vậy, theo quan niệm dân gian, các vị Thánh từ các miền khác nhau của vũ trụ bay về nhập hồn vào thân xác các Bà, Ông đồng.

Đặc biệt khi xong các nghi lễ xin nhập đồng, Các Thanh Đồng (tức ông Đồng hay bà Đồng) thường phải lấy khăn đỏ trùm lên đầu để thực hiện nghi thức giáng đồng (Thánh giáng), hai tay chắp nén nhang, người lắc lư đến khi Thánh nhập, tay Thanh Đồng mới buông nén hương và ra hiệu cho người giúp việc biết Thánh nào nhập, thuộc hàng thứ bậc nào để dâng lễ, rượu nước, thuốc lá v.v… 

Và khi đó cung văn mới bắt đầu tấu nhạc và xướng cung văn phù hợp với Thánh vừa nhập. Trong khi Thánh giáng, thường có hai hình thức, giáng trùm khăn (gọi là hầu tráng mạn) và giáng mở khăn. 

len dong, hau dong, can do, dao mau

Xem thêm: Có CĂN là gì? Dấu hiệu nhận biết mình có căn hầu đồng?

Chuẩn bị cho một buổi hầu đồng

Ðiện thờ:

Điện thờ chính thờ hệ thống Mẫu Tứ Phủ, Mẫu Thượng Thiên (Trời) ở giữa, Mẫu Ðịa (Ðất) ở bên phải, Mẫu Thoải (Nước) ở bên trái, Mẫu Thượng Ngàn (Núi, Rừng).

Chọn ngày lành:

Người hầu đồng trước tiên phải chọn ngày lành tháng tốt để chuẩn bị hầu với thủ nhang nhà đền, phủ hay điện.

Dàn nhạc hầu bóng (hầu đồng):

Gồm có

  • 1 đàn nguyệt 
  • 1 đàn nhị
  • 1 sáo
  • 1 trống lớn
  • 1 trống nhỏ
  • 1 cảnh đôi
  • 1 phách.

Tùy từng địa phương, tùy hoàn cảnh hành lễ mà người ta có thể thêm bớt nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác, nhưng người ta không thể bớt đi đàn nguyệt, trống nhỏ, cảnh đôi vì đây là những nhạc cụ nòng cốt, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc hầu bóng.

Nhân sự cho một buổi hầu đồng:

Ngoài Ông đồng hay Bà đồng thường có thêm hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng) đi theo để chuẩn bị trang phục, lễ lạt…

Trang phục hầu đồng:

Có bao nhiêu giá đồng thì tương ứng với ngần ấy bộ trang phục và trang sức đi kèm. Dân gian truyền lại có 36 giá đồng tương ứng với 36 vị Thánh và điều đó có nghĩa là sẽ có 36 bộ trang phục dành cho các giá đồng. Vì vậy người hầu đồng sẽ phải chuẩn bị đầy đủ trang phục tùy theo định hầu mấy giá. Thường thì cần những trang phục sau đây:

  • – Khăn đỏ phủ diện
  • – Ít nhất là 5 chiếc áo dài mầu sắc khác nhau và một quần dài trắng.
  • – Khăn tấu hương và một ít loại khăn khác.
  • – Thắt đai lưng mầu.
  • – Thẻ ngà, kiềng bạc, vòng, hoa tai, chuỗi hạt, xuyến, quạt và son phấn.
  • – Tuy nhiên cũng có trường hợp, người hầu đồng chỉ cần một vuông vải đỏ.

Màu sắc của trang phục phải phù hợp với màu sắc của từng phủ:

  • – Miền trời, tượng trưng bằng màu đỏ (Thiên phủ)
  • – Miền đất là màu vàng (Địa phủ)
  • – Miền sông biển là màu trắng (Thoải phủ)
  • – Miền rừng núi là màu xanh (Nhạc phủ).

can so hau dong, can dong, hau dong

Lễ vật hầu đồng:

Lễ vật trong mỗi vấn hầu trước kia thường đơn giản. Vật phẩm cơ bản gồm xôi, thịt, hoa quả, trầu, cau, rượu, thuốc, vàng mã,… Ngày nay, lễ vật ngày càng phong phú, gồm cả những sản phẩm hàng hóa công nghiệp, thực phẩm đương thời, đắt tiền, dùng trong cả lễ mặn và lễ chay.

Lễ vật trình đồng phải khác với lễ vật hầu bản mệnh hay tiệc khao, được trình bày trên một kỷ tháp hình chữ nhật kê chính giữa và gồm những thứ sau đây:

– Chén đũa bạc, đĩa và cốc pha lê. Chính giữa là một cái gương trên phủ một chiếc khăn thêu. Hai bên bục và trước kỷ (bày bốn mâm lễ Tứ Phủ mỗi mâm có chín quả trứng, một cái lược, một cái quạt, một đôi guốc, chín vuông vải màu phủ lên trên. Màu phải là màu chính của Tứ Phủ (xanh, đỏ, trắng và vàng). Bên cạnh mâm lễ có một cái chung nhỏ, một cái thau nhỏ. Cứ mỗi lễ phải thay một hình nhân (nộm) và bốn lốt. Bên cạnh mâm lễ Tứ phủ là mâm lễ sơn trang, mà bất cứ thứ lễ gì cũng phải chia ra làm 13 phần. Một phần lớn bày ở giữa còn 12 phần nhỏ bày xung quanh. Ngay cạnh đó là một mâm hài sơn trang (hoặc giống) màu. Mũi hài có thêu hình chim phượng. Một trăm vàng thoi (giấy vàng xếp thành thoi).

Lễ vật hầu đồng:

Lễ vật hầu đồng ở Tây Thiên

  • – Lễ mặn sơn trang gồm: có ốc, tôm, cá khô, cua (13 hoặc 15 con), mực, nếp cẩm, dừa tươi…
  • – Lễ sơn trang về đồ chay thường có: 1 mâm hoa quả gồm khế chua sung chát gừng cay, chanh ớt, dứa…ở dưới bệ. Thường thì tán lộc sơn trang ở giá chầu bé hoặc cô bé hoặc bất kì giá chầu hoặc cô miền thượng.

Trước bàn thờ bầy đủ các loại mã và một chiếc thuyền rồng hình cánh phượng có 12 hình nhân chèo thuyền, một đôi ngựa và một đôi voi có đủ yên cương và hàm thiếc. Những đồ dùng mã người ta sẽ hóa (đốt) sau khi lễ xong.

Ngày nay lễ vật có thay đổi đôi chút tùy nơi, tuy nhiên vẫn phải giữ căn bản tối thiểu tùy đồng tiền dâng cúng.

Trình tự một buổi hầu đồng

Bắt đầu buổi hầu đồng người ta đặt các lễ vật lên hương án. Người hầu đồng để các dụng cụ lên chiếu đồng, bước lên chiếu đồng, lấy hoa xoa lên mặt, quần áo rồi vẩy xung quanh để tẩy uế. Cung văn lên dây đàn, dạo nhạc, hát văn công đồng.

Ba động tác tiên khởi mà người hầu đồng phải làm là: Chấp tay chờ cho phụ đồng phủ khăn diên lên đầu trùm cả tay xong thì đưa tay lên trán rồi bước chân trái lên một bước, chân phải chụm lên với chân trái, lặp lại thêm hai lần mới quỳ xuống. Người hầu đồng làm lễ vái dập người, hai tay chống xuống chiếu, mặt úp sát, vái ba lễ. Sau đó đứng dậy đi dật lùi ba bước về vị trí cũ. Giá đệ nhất được bắt đầu.

Cũng như giá đầu, khi sang một giá khác, người hầu đồng sau khi thay đổi trang phục và lễ cụ sẽ bước lên chiếu đồng, cung văn chuẩn bị tấu nhạc. Người hầu đồng, chit xoa khăn vái, ngồi xếp bằng. Người phụ đồng kính cẩn đưa một chiếc khăn phủ diện mầu đỏ. Hầu đồng cầm khăn, vái mấy vái rồi phủ lên đầu, hai tay cầm hai mép khăn phủ ở đầu gối. Một lúc sau đầu hầu đồng lắc lư, đảo đảo rồi bất ngờ hét lên một tiếng, chỉ ngón trỏ trái lên trời. Đó là dấu hiệu giá quan lớn đệ nhất nhập đồng.

Trong hầu hết các giá Thánh Mẫu, thường hầu theo hình thức Tráng mạn, ví dụ: khi Mẫu Đệ Nhất giáng thì ông hay bà đồng giơ ngón tay báo hiệu thì cung văn tụng kinh theo tiếng chuông và mõ. Còn khi người hầu rùng mình bắt chéo tay trước trán là báo hiệu Mẫu đã xa giá (Thăng) cung văn hát điệu xa giá hồi cung… Nghi lễ hầu mở khăn chỉ khi thánh nhập thực sự và xuất hiện cho mọi người thấy, đây là hình thức dành cho Thánh từ hàng quan trở xuống…

Như vậy trong 36 giá đồng, khi hầu người ta thường hầu các vị thánh đã biết rõ về thần tích, cũng như vai trò của các vị Thánh đối với người trần. Ví như các vị Thánh Mẫu bao giờ cũng giáng và các vị Thánh giáng nhiều hơn, như quan lớn đệ Nhất, Đệ nhị, Đệ tam, Đệ Ngũ; Chầu đệ Nhị, Chầu Lục, ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bẩy, ông Hoàng Mười; Cô Bơ Thoải, Cô Bé Thượng Ngàn… Thường trong buổi Hầu nhiều nhất cũng chỉ tới 20 vị, ít nhất là 10 vị còn bình thường là 15 vị. Thường thì khi giáng đồng phải theo thứ tự từ Thánh Mẫu đến hàng quan, hàng chầu, hàng ông Hoàng, hàng Cô, hàng Cậu… còn Thánh Ngũ Hổ, ông Rắn (ông Lốt) vong linh tổ tiên giáng sau cùng mà ít khi giáng.

Trình tự của một giá đồng:

1. Thay Lễ phục:

Mỗi vị thánh đều có lễ phục riêng phù hợp với danh hiệu của vị đó và màu sắc cũng khác biệt tùy từng Phủ, từng gốc tích sắc tộc gốc, phẩm hàm cũng như văn hay võ.

2. Dâng hương hành lễ:

Đây là một nghi thức không thể thiếu được cho bất cứ giá nào. Hầu đồng tay trái cầm một bó nhang đã đốt sẵn, bọc trong một chiếc khăn có tẩm hương. Tay phải rút một nén nhang rồi huơ lên bó nhang trong tay làm động tác phù phép mà ngôn ngữ hầu đồng gọi là khai nông, để xua đuổi tà ma.

3. Lễ thánh giáng:

Khi hầu đồng có thánh nhập vào thì buông các nén hương đang cầm theo tay chắp, nghiêng mình ra hiệu thánh thuộc hạng thứ bậc nào.

Có hai hình thức thánh giáng:

  • – Giáng trùm khăn (hầu tráng mạn) với các giá Thánh Mẫu. Mẫu chỉ đến chứng giám rồi đi ngay.
  • – Giáng mở khăn – với các hàng quan trở xuống.

Khi thánh đã nhập, người hầu đồng không còn là người phàm nữa, xuất thần, tự thôi miên đã giúp cho họ nhảy múa một cách uyển chuyển, nhịp nhàng mà bình thường họ không làm được. Đó chính là hứng khởi mang tính tâm linh tôn giáo (chỉ có ở một số người)

4. Múa đồng:

Múa đồng là một hình thức diễn xướng đã được cách điểm hóa, khẳng định sự ứng nhập của thần linh. Bởi vậy động tác múa khác nhau tùy theo từng vị thánh. Nhưng chung chung thì thấy có ảnh hưởng của chèo và vũ điệu dân gian.

Mỗi động tác múa trong các giá chầu phản ánh con người thật của vị thánh giáng đồng và thay đổi theo đặc điểm của “giá”. “Giá” quan thường múa cờ, múa kiếm, long đao, kích. Giá các chầu bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không. Giá ông hoàng thì có múa khăn tấu, múa tay không, múa cờ. Giá các cô múa quạt, múa hoa, chèo đò, múa thêu thùa, múa khăn lụa, múa đàn, múa tay không. Giá các cậu thường múa hèo, múa lân…Trước khi sử dụng lễ cụ, người hầu đồng bắt chéo hai dụng cụ lên trước trán, sau đó cúi đầu làm lễ. Khi múa xong một giá, người hầu đồng lại bắt chéo hai lễ cụ trước trán để tạ lễ.

Nghi lễ Thánh giáng phải theo thứ tự từ cao đến thấp: Cao nhất là Thánh mẫu (Tứ vị Thánh mẫu), sau đó là hàng Quan (Ngũ vị quan lớn), Chầu (Tứ vị Chầu bà), Ông Hoàng (Ngũ vị ông Hoàng), Cô (thập nhị Vương cô), Cậu (thập vị Vương cậu), tổng cộng có đến 50-60 vị. Tuy nhiên, không phải tất cả các vị Thánh Tứ phủ đều nhập đồng, mà chỉ có một số, nhiều nhất là 36 vị nên mới có 36 giá đồng. Bình thường chỉ trên dưới 20 vị Thánh nhập trong một nghi lễ hầu đồng.

5. Ban Lộc và nghe Văn chầu:

Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch vị thánh đang giáng. Với các giá ông Hoàng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn. Lúc này cũng là lúc, Thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu thuốc lá, trầu nước..v.v. Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cương (khai quang) cho thanh sạch. Lúc này những người ngồi dự chung quanh đến gần để cầu xin hoặc nghe thánh phán truyền. Và đây cũng là lúc thánh phát lộc. Lộc thánh gồm nhiều thứ như: hoa quả, bánh trái, gương lược, tiền bạc, nén nhang cháy..v.v.

6. Thánh thăng:

Cuối cùng là dấu hiệu thánh thăng. Người hầu đồng ngồi yên, hai tay bắt chéo trước trán quạt che lên đỉnh đầu, khẽ rung mình, lúc ấy hai người phụ hầu đồng cấp tốc phủ khăn diện lên đầu người hầu đồng, cung văn nổi nhạc và hát điệu thánh xa giá hồi cung – kết thúc một giá đồng.

TRÌNH TỰ CÁC GIÁ TRONG MỘT VĂN HẦU

(Chú ý: Có 1 số nơi thỉnh thêm các giá khác về tráng bóng như Mẫu Âu Cơ, cha Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Lãnh tụ Hồ Chí Minh…)

  • *: Đức Vua Cha Ngọc Hoàng
  • *: Đức Vua Cha Đế Thích
  • *: Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình
  • *: Lão Mẫu Thượng Thiên(mẹ của Vua Cha Ngọc Hoàng)
  • *: Vương Mẫu Cửu Trùng Thiên Cung Cửu Thiên Huyền Nữ
  • *: Quốc Mẫu Sòng Sơn Quỳnh Hoa Công Chúa
  • *: Quốc Mẫu Tuyên Quang

I.Thỉnh Tam Tòa Quốc Mẫu

  • 1: Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên Liễu Hạnh Công Chúa
  • 2: Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn Quế Hoa Mỵ Nương Công Chúa
  • 3: Mẫu Đệ Tam Thoải Cung Xích Lân Long Nữ
  • *: Quốc Mẫu Đệ Tứ(Mẫu Địa)

II.Nhà Trần

  • 1: Đức Ông Trần Triều Quốc Công Tiết Chế Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương
  • 2: Vương Mẫu Trần Triều
  • 3: Đệ Nhất Vương Tử Hưng Vũ Vương
  • 4: Đệ Nhị Vương Tử Hưng Hiến Vương
  • 5: Đệ Tam Vương Tử Hưng Nhượng Vương
  • 6: Đệ Tứ Vương Tử Hưng Trí Vương
  • 7: Vương Tể Phò Mã Phạm Ngũ Lão
  • 8: Đệ Nhât Vương Cô Quyên Thanh Công Chúa
  • 9: Đệ Nhị Vương Cô Đại Hoàng Công Chúa
  • 10: Ông Tả Yết Kiêu
  • 11: Ông Hữu Dã Tượng
  • 12: Cô Bé Cửa Suốt
  • 13: Cậu Bé Cửa Đông

III. Hội đồng Thánh Chúa

  • 1: Chúa Đệ Nhất Tây Thiên
  • 2: Chúa Đệ Nhị Nguyệt Hồ
  • 3: Chúa Đệ Tam Lâm Thao
  • 4: Chúa Thác Bờ
  • 5: Chúa Long Giao
  • 6: Chúa Cà Fê
  • 7: Chúa Năm Phương
  • 8: Chúa Mọi

IV. Tư Phủ Vương Quan

  • 1: Vương Quan Đệ Nhất Thượng Thiên
  • 2: Vương Quan Đệ Nhị Giám Sát
  • 3: Vương Quan Đệ Tam Thỏai Phủ
  • 4: Vương Quan Đệ Tứ Khâm Sai
  • 5: Vương Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh
  • 6: Tôn Quan Điều Thất
  • *:Quan Bản Đền (Hầu sau các giá quan lớn)

V. Tư Phủ Chầu bà

  • 1: Chầu Đệ Nhất Thượng Thiên
  • 2: Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn
  • 3: Chầu Đệ Tam Thoải Cung
  • 4: Chầu Đệ Tứ Khâm sai
  • 5: Chầu Năm Suối Lân
  • 6: Chầu Lục Cung Nương
  • 7: Chầu Bảy Tân La
  • 8: Chầu Tám Bát Nàn Đông Nhung
  • 9: Chầu Cửu Tỉnh Sòng Sơn
  • 10: Chầu Mười Đồng Mỏ
  • 11: Chầu Bé Bắc Lệ
  • 12: Chầu Bé Thoải Cung

VI. Tứ Phủ Ông Hoàng

  • 1: Ông Hoàng Cả Quận Vân
  • 2: Ông Hoàng Đôi Triệu Tường (cũng có nơi hầu giá này sau giá Quan Điều Thất)
  • 3: Ông Hoàng Bơ Thoải Cung | Ông Hoàng Bơ Bắc Quốc
  • 4: Ông Hoàng Tư Khâm Sai
  • 5: Ông Hoàng Năm
  • 6: Ông Hoàng Lục Thanh Hà
  • 7: Ông Hoàng Bảy Bảo Hà
  • 8: Ông Hoàng Bát Nùng
  • 9: Ông Hoàng Chín Cờn Môn
  • 10: Ông Hoàng Mười Nghệ An

VII. Tứ Phủ Thánh Cô

  • 1: Cô Cả Vân Đìng
  • 2: Cô Đôi Thượng Ngàn | Cô Đôi Cam Đường
  • 5: Cô Bơ Bông | Cô Bơ Tây Hồ
  • 4: Cô Tư Ỷ La
  • 5: Cô Năm Suối Lân
  • 6: Cô Sáu Lục Cung
  • Cô sáu sơn trang
  • 7: Cô Bảy Kim Giao
  • 8: Cô Tám Đồi Chè
  • 9: Cô Chín Thượng Ngàn | Cô Chín Giếng (Cô Chín Sòng)
  • 10: Cô Mười Mỏ Ba
  • 11: Cô Bé Đông Cuông | Cô Bé Tân An | Cô Bé Núi Dùm | Cô Bé Minh Lương | Cô Bé Mỏ Than | Cô Bé Suối Ngang | Cô Bé Thác Bờ | Cô Bé Cây xanh | Cô Bé Bản Đền ………….
  • 12: Cô Bé Thoải Cung

VIII.Tứ Phủ Thánh Cậu

  • 1: Cậu Hoàng Cả Phủ Giầy
  • Cậu Hoàng Cả Sòng Sơn
  • 2: Cậu Hoàng Đôi
  • 3: Cậu Hoàng Bơ
  • 4: Cậu Hoàng Tư
  • 5: Cậu Hoàng Năm
  • 6: Cậu Hoàng Bé Quận Đồi Ngang
  • 7: Cậu Bén Bản Đền

IV. Quan Hạ Ban

  • 1: Hoàng Hổ Thần Tướng
  • 2: Thanh Hổ Thần Tướng
  • 3: Xích Hổ thần Tướng
  • 4: Bạch Hổ Thần Tướng
  • 5: Hắc Hổ Thần Tướng
  • 6: Thanh Xà Đại Tướng
  • 7: Bạch Xà Đại Tướng

Nhận biết Thánh thần và những hình thức mê tín khác

Trong nghi thức Hầu bóng (Hầu đồng) thường các vị Thánh nhập hồn bao giờ cũng là các vị Thánh làm những điều tốt lành, phù hộ cho ông Đồng, bà Đồng và các con nhang, đệ tử làm ăn may mắn, chữa khỏi bệnh tật, trừ được rủi ro… 

Bởi lẽ các vị Thánh đó lúc sinh thời đều là những người tài giỏi, đạo cao, đức trọng và có vị trí cao trong xã hội đã từng có công với nước, với dân. Hầu đồng hoàn toàn khác với các hình thức nhập hồn khác như nhập hồn không tự nguyện của người bị nhập hồn, nhập hồn cản những người “giữ” mang lại tai họa cho người bị nhập và những người khác. Vì thế, trong nghi lễ hầu đồng bao giờ cũng có nghi thức xin thánh nhập, đây là một nghi lễ dân gian được lâu đời truyền lại cần được phân biệt với các hình thức hầu bóng mang yếu tố mê tín dị đoan khác.

KẾT LUẬN

Gốc của đạo Mẫu và hầu đồng của người Việt là ở miền Bắc, sau này theo chân của người di dân vào miền Nam và lên Tây Nguyên. Hầu đồng ở Bắc Bộ mang tính kinh điển, uy nghi, khuôn phép. Hầu đồng ở Nam Bộ, nhất là Sài Gòn thì cởi mở, vui nhộn, dân dã hơn. Ở Huế, ngoài kiểu hầu đồng nghi lễ, còn có hầu đồng tập thể, gọi là Đồng vui, nhất là vào dịp tháng ba giỗ Thánh Mẫu Mẫu Thiên Ya Na, rước Mẫu trên sông Hương về Điện Hòn Chén.

Hầu đồng của người Việt tuy mang nhiều nét đặc thù, nhưng xét về kiểu loại thì cũng không phải là độc nhất. Nếu không kể việc người Việt hiện tại mang nghi lễ hầu đồng ra khắp thế giới: Mỹ, Pháp, Đức, Anh, Thái Lan, Australia…thì hầu đồng cũng là một trong các dạng thức của tín ngưỡng Shaman, phổ biến khắp các dân tộc trên hành tinh, có từ thời kỳ xã hội bộ lạc. Nhưng nay, trong điều kiện xã hội đô thị hoá, hiện đại hoá thì lại có cơ hội bùng phát trở lại, coi đó như là phương thức giải toả các dồn nén, bức xúc (stress) của con người. Bởi suy cho cùng, hầu đồng chính là phương cách giúp những người có những lệch chuẩn về tâm sinh lý có cơ hội tái hoà nhập cộng đồng. Tất nhiên, bên cạnh các giá trị xã hội và văn hoá đó, hầu đồng cũng tích hợp vào nó những “bụi bậm”, mà cái đó phần lớn do người ta lợi dụng nghi lễ này vì lợi ích cá nhân. Khi con người quá mong muốn cầu xin “lộc” để thuận lợi cho mình thì lại càng dễ bị lợi dụng, nhất là trong tín ngưỡng càng dễ bị lừa.

Chính vì thế cần hiểu rõ, hiểu đúng bản chất của sự việc, tránh để mọi việc trở nên cực đoan. Hầu đồng là để yên căn, yên số, yên bản mệnh, xin sự an lành của chính mình chứ không phải là nơi xin “lộc, lá”.

Hiện nay ở một số trường đã đưa hầu đồng trở thành một môn học trong tín ngưỡng dân gian. Bộ Văn hóa – Thể thao & Du lịch đã công nhận hầu đồng là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và đang cùng Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định chuẩn bị hồ sơ để trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể nhân loại. Chúng ta đang cố gắng giữ gìn sự trong sáng của Đạo Mẫu và nghi lễ hầu đồng. Đạo Mẫu vẫn chưa chính thức công khai, có văn bản thể hiện giáo lý, kinh sách. Nên chăng đã đến lúc cần công nhận, tổ chức Đạo Mẫu, nghi lễ hầu đồng để khẳng định và phát triển một tín ngưỡng lành mạnh, một chỗ dựa tâm linh của người Việt.

Tứ phủ công đồng